lại lên đường đi đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước trong truyện nôm
Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu, có lẽ là điển hình trọn vẹn nhất về
mẫu người hiệp sĩ trong chế độ phong kiến.
Nhưng trong xã hội phong kiến, không phải cứ dẹp xong giặc ngoại xâm là
tức khắc mọi người đều sung sướng và bình đẳng, mà còn có áp bức, bất
công, do vẫn tồn tại chế độ bóc lột. Dưới khuôn khổ nhà nước phong kiến,
nhân dân lại sáng tạo ra hình ảnh vị quan công minh liêm chính, cầm cân
nảy mực cho công lý, dùng pháp luật thẳng tay trừng trị kẻ gian ác, bất
lương, cứu người lương thiện mắc vòng oan uổng. Muốn vậy không thể chỉ
dùng sức mạnh và lưỡi gươm mà đủ, trước hết phải vận dụng trí tuệ sáng
suốt, tài quan sát và óc phán đoán tinh vi, nhậy bén, mưu trí thông minh để
vén mở màn bí mật che giấu mưu mô của kẻ ác, đưa chúng sa bẫy để nhân
đó lật mặt trái của chúng, bắt chúng thừa nhận tội lỗi. Và cuối cùng phải có
một trái tim nóng bỏng thiết tha với hạnh phúc của nhân dân, một cái đầu
kiên cường dũng cảm, không chịu khuất phục, nhượng bộ trước một thế lực
tàn ác muốn bóp méo pháp luật, thay đen đổi trắng, bịt miệng người bị oan,
bao che cho kẻ có tội.
Cũng như nhân dân nhiều nước khác trên thế giới, nhân dân Trung Quốc đã
sáng tạo ra hình tượng Bao Công, vị quan xử án công minh chính trực,
khẳng khái vô tư đã khám phá ra không biết bao nhiêu vụ án ly kỳ, cứu bao
người lương thiện bị oan và thẳng tay trừng trị kẻ phạm pháp, dù chúng
được những nhân vật chóp bu trong chính quyền phong kiến như vua, thái
hậu nâng đỡ, dù chúng ở những địa vị cao như quý phi (vợ lẽ vua), quốc
trượng (bố vợ vua), phò mã (con rể vua), thái giám (người bố già nuôi vua
từ nhỏ).
Bao Công không phải là một nhân vật hoàn toàn hư cấu mà xuất phát từ
một nhân vật lịch sử có thật, đó là vị quan Long đồ các đại học sĩ, lệnh
doãn phủ Khai Phong, tên là Bao Chửng (chữ Chửng có nghĩa là cứu vớt,
ngụ ý cứu vớt nhân dân) dưới triều vua Tống Nhân Tông (thế kỷ 11) có tài