Không ở đâu tình thương vợ thương con lại tha thiết hơn ở đây. Có
lần trong đêm giao thừa, Nguyễn Đức Thuận thấy mường tượng như mấy
đứa con và vợ anh hiện lên, và lúc đó lòng anh xốn xang tưởng chừng chỉ
cần anh im lặng một chút là hình ảnh vợ con hóa thành người thật sự ở bên
cạnh anh. Anh nói: "Tôi run run giơ bàn tay lên, vuốt tóc mấy đứa con
tưởng tượng đang giương những con mắt đen láy và tròn xoe nhìn tôi...".
Nhưng rồi anh nói với con anh mà cũng là tự nhủ lòng mình: "Các con cố
tìm mọi cách về thăm quê nội và nói với họ hàng rằng ba đã làm trọn
những lời ông dậy dỗ, đã không làm điều gì để ô nhục cho gia đình họ
Bùi". Và anh tin rằng nhất định anh sẽ sống, chiến đấu và chiến thắng để
trở về với vợ con anh.
Có những lúc anh nằm nhìn mê mải những tia nắng mặt trời chấp chới,
những hạt bụi lọt vào trong khám tối, hoặc say sưa ngắm một ánh sáng
trăng xanh rọi sáng bệ nằm. Anh Bình có một nếp quen là tháng nào cũng
dành được mấy đêm ngắm trăng, hầu như bao giờ anh cũng bắt được trăng
từ mái ngói hở ở chuồng cọp.
Bọn địch đưa Nguyễn Đức Thuận ra biển, định quẳng anh xuống đó.
Trước giờ chết, anh cảm thấy lâng lâng, nhè nhẹ, anh nhìn đất nước mênh
mông, dịu lắng mà càng thêm yêu mến đất nước cảnh vật vô cùng. Anh
nhìn hòn núi Chúa, thấy nó hùng vĩ chứ không ghê rợn như những đêm
mưa bão. Nhìn lên sườn núi, thấy một vệt sáng xanh, anh nhớ mang máng
một câu thơ cổ, "nhớ từ cái sáng trăng lưng sườn núi mà không sao nhớ ra
được lời thơ. Một câu thơ Đường thì phải". Anh nhìn bãi cát trắng, nhìn
những nấm mồ bên hàng dương, anh tự nhủ: "Trăng sáng, biển khơi, núi
cao, trời rộng. Chết trong đó với cái khí tiết không hề suy suyển. Được
lắm!". Trước giờ chết, anh lại càng yêu mến cảnh vật, yêu mến thiên nhiên,
yêu mến cuộc sống, thưởng thức cái đẹp của núi sông, đất nước mà không
hề xao xuyến dao động, sẵn sàng đi vào cái chết một cách chiến thắng.