ran ran khắp xa gần, đài mở ở bốn bề, mở cho đến câu tận cùng của bài
Tiến quân ca...
Cái gì đối với tôi cũng hết sức lạ. Từ túp lều nhỏ xíu nọ đến những
đường hầm ngang dọc; từ người bí thư chi bộ trẻ tuổi đến anh chiến sĩ Giải
phóng đội mũ vải cài lá ngụy trang, đeo tiểu liên; từ tiếng đài oang oang
trong đêm tối đến dòng khẩu hiệu vắng ngang đường... tất cả đối với tôi
đều mới mẻ và lạ thay, lại gần gũi, thân yêu vô cùng. Tôi bỡ ngỡ nhìn, xem,
nghe, hỏi. Tôi y hệt một người ở một vùng quê hẻo lánh lần đầu tiên ra
chốn thị thành...
Chỉ mới hơn mười ngày, hình ảnh Côn Đảo đã lùi rất xa vào dĩ vãng,
còn chăng chỉ là đôi chân vẫn tập tễnh, chưa khỏi liệt. Còn chăng chỉ là
những giây phút bàng hoàng sực nhớ rằng mình vừa ở trong cõi chết đi ra.
Còn chăng chỉ là nỗi uất hận xen với những chua cay thỉnh thoảng lại trào
lên ở trong lòng...
Tâm trí tôi mải chìm đắm trong những suy nghĩ mới. Lòng dạ xốn
xang trước những cảnh cũ mà lạ, trước những người xưa mà mới, trước
những bước đi đầy kỳ thú của tôi trong vùng du kích.
Gặp các đồng chí phụ trách, tôi biết nói gì đây? Ôi chao, lòng tôi khác
nào nổi sóng. Cha mẹ sinh ra tôi, đó là lần thứ nhất tôi ra đời. Năm 1945,
Cách mạng thành công, đó là lần thứ nhất tôi sống lại. Lần này, Đảng và
nhân dân giải phóng tôi ra khỏi cái chết, tôi sống lại lần thứ hai.
Tôi đã sống vì tôi đã làm theo yêu cầu của Đảng: chiến đấu và chiến
thắng!
***
Khi tôi ôm chầm lấy đồng chí thay mặt cấp ủy, nghe tiếng nói quen
thân ngay sát bên tai: "Tưởng không bao giờ còn gặp lại anh...", tôi thấy
người tôi rạo rực không sao tả xiết. Tôi nghẹn ngào: