được yêu cầu mang theo vài tờ một đô-la, và khi tìm trong túi hay ví
tiền, họ sẽ nhớ mình có ít tiền lẻ.
Rất nhiều phụ nữ đồng tình – họ cho rằng đây là một việc làm
tốt và có ích. Trung bình, mỗi phụ nữ góp một đô-la.
Cuộc nghiên cứu được lặp lại với một nhóm phụ nữ khác, nhưng có
một sự khác biệt nhỏ. Lần này, “thành viên quyên góp từ thiện” sẽ tình
cờ có tên giống với người phụ nữ mà họ tiếp cận. Nếu một phụ nữ tên
Sally vừa rời phòng thí nghiệm, nhân viên của tổ chức này sẽ xuất hiện
với bảng tên Sally trên áo. Và nhân viên Kate sẽ gặp người phụ nữ tên
Kate.
Dường như việc cố ý sắp xếp hai đối tượng cùng tên đã giúp
khoản tiền quyên góp tăng lên gấp đôi. Khi nhìn thấy bảng tên của
nhân viên, những người phụ nữ nghĩ rằng đây hẳn sẽ là người đồng
điệu với mình, và thế là họ hào phóng nâng mức quyên góp lên gấp
đôi, Đôi bạn trùng tên Kelly trung bình mỗi người ủng hộ 2,07 đô-la.
Một khi chấp nhận một người là đồng điệu với mình, chúng ta bắt
đầu nhìn họ với ánh mắt thiện cảm, cư xử tử tế, ân cần và hào phóng
với họ hơn. Sự thay đổi trong cách xử sự còn kéo theo nhiều thay đổi
tích cực trong hành động sau đó: chúng ta có xu hướng đối đãi ân tình
với những người xem mình thuộc nhóm đồng điệu. Đổi lại, chúng ta
cũng cảm thấy dễ dàng yêu mến những đối tượng này hơn.
Trên thực tế, điểm tương đồng thể hiện những phẩm chất đặc biệt
trong mỗi chúng ta. Chính xu hướng nhìn nhận những người đồng điệu
với quan điểm cởi mở và dễ chịu đã giúp đôi bạn cùng tên Kelly nhanh
chóng cảm mến nhau.
Sự tương đồng không chỉ tạo ra sự gắn kết ban đầu mà còn có thể
giúp các mối quan hệ bền vững về lâu về dài. Hai Kelly Hildebrandt
gặp gỡ, tìm hiểu và kết hôn là ví dụ điển hình.