Vừa đi vào rừng trúc, Liễu Địch liền cảm thấy ánh sáng tối dần. Trên lối
đi trải đầy những hòn đá vụn. Dưới tán trúc dày đặc, đến hòn đá cũng được
nhuộm một màu xanh trong suốt. Gió thổi qua lá trúc, phát tiếng kêu xào
xạc. Nơi tận cùng thấp thoáng mấy ngôi nhà ngói màu xám và tường màu
trắng. Bức tường trắng có một cánh cửa gỗ nhỏ, màu đỏ thẫm. Bên trên
cánh cửa viết ba chữ ngay ngắn: "Trúc Ngâm Cư". Hai bên dán câu đối:
"Nhàn xứ huề thư hoa hạ tọa, hưng lai đắc câu trúc gian ngâm" (Đại ý:
Nhàn rỗi cầm sách ngồi dưới hoa, hứng thú đến được câu Trúc gian ngâm),
người viết là "Hải Thiên kính đề". Liễu Địch bất giác thầm cảm thán: " Câu
đối hay quá! Chữ đẹp quá! Tên người rất tuyệt!".
Đi vào cổng, Liễu Địch phát hiện bên trong là cái sân tương đối lớn.
Trong sân có một đình nhỏ, mái vàng cột đỏ. Trên cây cột cũng treo một
câu đối giấy đen chữ vàng: "Số can tu trúc thất gian ốc, nhất tịch thanh
phong vạn hách vân" (Đại ý: Trong khu rừng trúc có bảy gian nhà, trên trời
gió mát vạn rãnh mây). Liễu Địch lại cảm thán: "Rất có khí phách!". Cô
nhìn kỹ, người viết câu đối vẫn là "Hải Thiên kính đề".
Trong sân nhỏ đúng là có bảy gian nhà mái bằng, phía đông và tây có
hai gian nối liền nhau, ba gian phòng chính còn lại là phòng khách, phòng
uống trà và thư phòng. Bảy gian nhà được nối với nhau bằng hành lang dài.
Trước mỗi cửa phòng đều trồng hai cây hải đường tứ phủ rất lớn.
Một điều khiến Liễu Địch ngạc nhiên là ngoài nhà bếp, sáu gian phòng
còn lại đều được đặt những cái tên tao nhã và treo câu đối tương ứng.
Phòng chính giữa gọi là "Nhã Tập Đường", phòng uống trà bên cạnh có tên
"Trà Tiên Cốc Vũ", thư phòng gọi là "Kim Thạch Ốc". Phòng ngủ của vợ
chồng giáo sư Tô Văn là "Thê Thê Lư"...
Liễu Địch vừa xem, vừa đọc, vừa thưởng thức, cô không khỏi thán phục
tài năng của chủ nhân ở nơi đây. Cô chú ý, người viết các câu đối đều là
"Hải Thiên". Hải Thiên là ai? Liễu Địch thầm nghĩ, người có tên Hải Thiên