rằng mối đe dọa đối với hòa bình và ổn định quốc tế là thực sự đã giảm
xuống, khi châu Âu còn phải đối diện với sự thật rằng Matxcơva có thể xóa
bỏ ba nước nhỏ bé này, cho dù ba nước này không hề có lỗi nào trong một
cuộc khiêu khích thực sự và đã tỏ rõ năng lực điều hành rất tiến bộ những
công việc nội bộ của mình mà không hề đe dọa tới lợi ích của các nước
láng giềng. Do đó, sẽ là logic khi coi việc hỗ trợ những nước này trở lại
tình trạng tốt đẹp của tự do và độc lập là một phần trong những mục tiêu
của Mỹ.
Tuy nhiên, rõ ràng là nền độc lập hoàn toàn của những nước này đòi hỏi
những nhân nhượng về mặt lãnh thổ thực tế từ phía Chính phủ Xô Viết. Mà
điều này lại động chạm trực tiếp tới phẩm giá và những quyền lợi sống còn
của quốc gia Xô Viết. Thật là vô ích nếu cho là điều này có thể đoạt được
bằng những phương tiện phi quân sự. Vì vậy, nếu chúng ta cho rằng những
mục tiêu nói trên là thiết thực trong cả thời bình và thời chiến, thì logíc của
nó sẽ là liệu chúng ta có thể buộc Matxcơva cho phép các công dân bị
cưỡng bức di cư trở về các nước vùng Baltik và thiết lập ở các nước này
chế độ tự trị, đáp ứng những nhu cầu văn hóa nói chung và những phong
tục dân tộc của những dân tộc này. Trong chiến tranh chúng ta đã có thể
dấn bước, nếu điều đó là cần thiết. Nhưng câu trả lời cho vấn đề này lại
tùy thuộc vào đặc điểm của chế độ Nga đã từng được hình thành ở vùng
này từ sau chiến tranh; còn với chúng ta, cố gắng giải quyết điều này trước
đây là không cần thiết.
Do đó, khi nói rằng chúng ta cần làm suy giảm sức mạnh và mức độ ảnh
hưởng của Kremli tới mức chúng không còn là mối đe dọa đối với hòa bình
và ổn định của cộng đồng quốc tế, chúng ta có quyền dự đoán rằng chúng
ta có thể theo đuổi mục tiêu này không chỉ khi có chiến tranh, mà ngay cả
trong thời bình, bằng phương tiện hòa bình, và nói chung, không nhất thiết
phải đụng tới những vấn đề vị thế của Chính phủ Xô Viết – nếu không, tất
yếu sẽ dẫn tới một cuộc chiến tranh.
2. Những thay đổi trong lý luận và thực hành quan hệ quốc tế của
Matxcơva