VII. Căn cước mới
Sau tết Do Thái ít lâu, vào mùa thu năm 1960, Đéc-vi-sơ bắt đầu làm
cho Ê-li Cô-hen một căn cước mới.
Trước hết, phải biến Ê-li thành một người A-rập theo đạo Hồi giống hệt
như y đã theo đạo Do Thái. Để biến được như thế, Ê-li phải tới một thành
phố A-rập ở Na-da-rét với căn cước giả là sinh viên trường đại học Giê-ru-
xa-lem. Pháp sư Mu-ha-mét Xan-man, một ông già phong thái tộc trưởng,
sau này là pháp sư của y về đạo Hồi, không tài nào hiểu nổi vì sao mà
người học trò của ông lại khao khát đạo Hồi đến thế.
Ngồi theo lối phương Đông trên một tấm thảm trong một ngôi nhà đá
xinh đẹp của pháp sư, Ê-li tập thực hành những lý thuyết đạo Hồi mà y đã
học tại A-lec-xăng-đơ-ri hồi còn nhỏ. Đọc một vài chương trong kinh Cô-
ran và nhất là những kinh nguyện thay đổi theo từng màu và từng ngày lễ,
đó là điều căn bản của việc thực tập này. Ê-li đọc thuộc long năm bài kinh
nguyện hàng ngày của đạo Hồi và kinh Pha-ta là bài kinh mở đầu và nhập
đề cho các bài kinh khác.
Được pháp sư khen ngợi, Ê-li luôn luôn mang trong người quyển kinh
Cô-ran mà y phải học thuộc long nhiều đoạn. Và cứ ngày thứ sáu, y có thói
quen tới các nhà thờ mà người ta thường thấy ở vùng nông thôn A-rập ở I-
xra-en, y cũng bò ra lễ, mặt quay về hướng thủ đô đạo Hồi và đáp lại viên
xướng lễ (mu-e-din) gọi các tín đồ từ trên bậc cao của nhà thờ: “Thượng đế
chỉ có A-la, còn Mô-ha-mét là tiên tri của Ngài”.
Các căn cước người ta làm cho Ê-li không bắt buộc y phải thông hiểu
quá sâu về đạo Hồi mà chỉ cần có vẻ một người A-rập tiến bộ, hiểu qua tôn
giáo nhờ lúc còn nhỏ đã được học qua. Nhưng Ê-li vốn dĩ chăm chỉ lại hăng
hái nên đã học quá mức mong muốn của cấp trên.