- Ngủ đi cháu.
Giọng bà tôi ấm áp. Tôi kéo chiếc chăn chiên lên tận cổ, nằm im lặng.
Đêm mùa thu se lạnh và vắng lặng lạ thường. Đã mấy tháng nay, không
ai nghe thấy tiếng con cá thần quẫy trong đêm. Những đêm như thế, tôi
thường dỏng tai trong đêm để nghe tiếng “i i” từ đâu đó ngoài đầm Vực
vọng về. Nhưng tôi không nghe thấy gì ngoài tiếng côn trùng quanh nhà và
tiếng lá vườn trong những đêm có gió. Tôi tin rằng con cá thần đã theo sông
Đáy ra biển. Có lẽ mùa hạ năm sau nó mới trở về.
Một mùa đông khắc nghiệt lại đến. Buổi chiều nào chúng tôi cũng ra
chân đê lấy những cây dứa dại khô chất thành đống đốt lửa. Và đây cũng là
một mùa đông khủng khiếp đối với tôi. Năm ấy tôi bước vào tuổi mười ba
và trải qua một trận ốm ghê gớm. Sau này tôi cũng không biết mình bị bệnh
gì. Tôi nằm co quắp trên giường ở góc nhà. Bà tôi suốt ngày đốt một đống
lửa cạnh giường cho tôi sưởi. Lạnh quá, tôi bò ra mép giường để gần lửa
hơn. Hầu như tôi không đứng lên được lâu. Cho nên suốt ngày tôi chỉ nằm
hoặc bò. Tôi chẳng thích ăn gì, chỉ thích ngửi mùi áo bà tôi. Ông Bộc đôi
ngày lại sang thăm tôi. Ông cho tôi đủ thứ quà. Nhưng tôi chẳng thích gì
ngoài những ông tướng ngày xưa bằng bột nếp. Mỗi khi nhìn thấy ông
tướng bằng bột nếp trong tay ông Bộc thì tôi như khỏe hẳn. Tôi ngồi dậy
đón quà từ tay ông và ngắm nghía. Ngồi được một lúc tôi lại phải nằm
xuống. Lúc nào tôi cũng đặt ông tướng bột kia nằm bên cạnh.
Hơn một tháng nằm liệt giường bệnh tôi cũng không hề giảm. Tóc tôi
dài ra và xanh mướt, lưỡi xanh lè như váng đồng. Bà tôi quyết định đưa tôi
đến nhà một ông thầy lang cách nhà tôi hơn mười cây số. Bà lấy chiếc
thúng cái, lót một ít rơm và đặt tôi nằm vào trong đó. Lúc đó tôi bé và nhẹ
như một con mèo. Bà tôi lấy chiếc nón đậy tôi và đội cái thúng có tôi nằm
trong đó, đưa đến nhà ông lang.