tới tấp phóng vào nó. Con cá quẫy mạnh. Nước tung lên mù mịt. Con cá bơi
trở lại cánh đồng. Con cá đã bị nhiều vết thương. Máu của nó loang đỏ trên
mặt nước. Những người đàn ông xóm trại không cho con cá nghỉ lấy sức.
Họ tấn công con cá bằng mọi cách. Sau mỗi lần bị tấn công, con cá lại tìm
cách trở lại đầm Vực. Nhưng nó không phá nổi cái hàng phòng ngự của
lưới và người dày đặc.
Lần cuối cùng, con cá nổi lên. Nó nghếch đầu nhìn về phía mọi người
đang la hét và sẵn sàng băm nát nó. Mọi người đều nhìn thấy đầu con cá to
bằng cái chum sành đựng thóc, con mắt to như mắt trâu. Con cá một mắt từ
từ bơi lùi ra xa sau hồi lâu nhìn những người đàn ông xóm trại đang chặn
đường về đầm Vực của nó. Rồi bất chợt nó đập mạnh đuôi và lao về phía
mọi người. Khi đến gần cái tuyến phòng thủ ấy, con cá tung mình lên. Như
một chiếc tàu bay, con cá lao qua đầu mọi người sang bên đầm Vực. Nó rơi
xuống đầm nước. Một cột nước lớn dựng lên cao ngất và đổ xuống như một
trái núi lở. Tất cả những người có mặt ở đó kêu lên kinh hãi. Sau đó, mọi
người như chết đứng.
Suốt mấy ngày sau, cả xóm trại ngơ ngác. Bố tôi suốt ngày sang nhà lão
Bương uống rượu. Những người đàn ông xóm trại đã thề không bao giờ
nghĩ đến chuyện bắt con cá một mắt nữa. Những người khác cho rằng đó
không phải là một con cá, mà đích thị là một con quỷ. Những người đàn bà
xóm trại lo lắng con quỷ một mắt sẽ trả thù những người săn bắt nó.
Đêm đêm, tôi nằm trôi trong những nỗi lo âu tản mạn. Cứ chớp mắt tôi
lại thấy ông Bộc gọi tôi từ ngoài cửa sổ mở ra vườn chuối. Ông nài nỉ tôi
hãy bắt con cá một mắt để minh oan cho ông. Ông nói với tôi rằng, lòng
yêu quý của tôi đối với ông sẽ giúp tôi bắt được con cá ấy. Tỉnh khỏi cơn
mơ, tôi lại nhớ tới lời hứa với ông Bộc trước khi ông chết. Những lúc ấy, tôi
lại nghe thấy tiếng kêu i i của con cá một mắt t đầm Vực vọng về rõ và
buồn bã hơn lúc nào hết.