Trên tấm bia đá này có khắc mười chữ “Trung tâm tá mệnh định quốc
nguyên huân chi bài”
, còn được Triệu Hùng viết tặng hơn một vạn ba
nghìn chín trăm chữ về cuộc đời và công danh của Hàn Thế Trung lúc sinh
thời. Tấm bia đá này cao hơn tám mét, xét về độ cao hay độ dài của văn bia
đều được tính là vật hiếm có trên thế gian. Tiếc là vào năm 1939, nó bị gió
lốc thổi ngã, vỡ thành hơn mười mảnh. Đến năm 1946, các tăng nhân mới
dùng xi măng trộn lẫn với gang để ghép nó lại, sau đó dựng nó lên, nhưng
dù thế nào cũng không thể dựng lại đúng vị trí trên bệ đỡ hình rùa như
trước kia.”
Bia tưởng niệm nghĩa sĩ đã chiến đấu và hi sinh vì sự nghiệp bảo vệ đất
nước.
Tần Thu hừ một tiếng, nói: “Thiên tai cái gì chứ? Là do đám người kia
quá sức hung hăn, ngang ngược, đến ông trời cũng thấy không thuận mắt!”
Tiểu Thực ngẩn người, không hiểu “đám người kia” mà Tần Thu vừa nói
là ai. Ngẫm nghĩ lại, năm 1939 chẳng phải là thời kì kháng chiến chống
Nhật sao? Đó còn là năm Đức và Ý kí hiệp ước đồng minh nữa.
Tiểu Thực còn chưa hiểu rõ lời của Tần Thu thì Phương Hồng Khanh đã
nhìn bạn mình, cười nói: “Này Tần Thu, anh bắt đầu tin vào số trời từ khi
nào vậy?”
Tần Thu vẫn giữ nguyên khuôn mặt lạnh lùng, trầm giọng nói: “Chẳng lẽ
cậu không tin là trời cao có mắt à?”
“Tôi tin.” Phương Hồng Khanh khẳng định. Hắn nhẹ nhàng sờ lên tượng
rùa đá bên cạnh tấm bia, hướng về phía ngôi mộ, chậm rãi, trầm giọng
ngâm:
“Hào khí ngất trời xơi sạch thịt quân Hồ,
Cười ngạo nghễ uống cạn máu giặc Hung Nô.
Cẩn thận giữ gìn, bảo vệ kĩ nước non tổ quốc,
Không thẹn với trời xanh.”
Tiểu Thực cảm thấy trong lòng chấn động. Tiếng sóng dữ, tiếng lửa cháy
hừng hực, tiếng trống trận dồn dập và tiếng hô giết đang vang ầm ầm bên
tai bỗng từ từ lắng xuống. Cậu nớ đến tiếng gọi “Tiểu thư” đầy khắc khoải,