tụng kinh niệm Phật, những nhóm khách hành hương thành tâm cầu khẩn,
động tác và biểu cảm đều vô cùng thành kính. Ở giữa điện thờ tôn nghiêm,
tuy Tiểu Thực không theo đạo gì nhưng cũng bị bầu không khí thần thánh
này ảnh hưởng, bước đi nhẹ nhàng hơn, càng không dám nói lớn tiếng.
Trải qua chuyện ở miếu Bắc Nhạc, Tiểu Thực đặc biệt chú ý quan sát
những bức tranh tường trong điện thờ, sợ bỏ sót manh mối nào đó. Tuy
nhiên, dù cậu nhìn chăm chăm đến mức hai mắt muốn cay xè cũng chẳng
thể tìm ra điểm không thích hợp. Chẳng có bất kì dấu vết bào dù là nhỏ
nhất, cũng không có bức tranh tường nào có nội dung liên quan đến nhau
để gợi ý manh mối. Thấy Tiểu Thực nhìn bức tranh tường đển mỏi cả mắt,
phải đưa tay dụi, Tần Thu vung tay vỗ bốp một phát vào đầu cậu, lạnh lùng
thốt ra một từ: “Heo!”
Tiểu Thực kêu “Á, á” , tỏ vẻ không vui. “Ông chủ, sao anh lại chửi người
ta như thế? Đúng vậy, đúng vậy, tôi ngu! Chẳng lẽ anh đã nhìn ra manh mối
gì rồi ư?”
Tần Thu liếc cậu một cái. “Cậu nghĩ ai cũng là họa thánh hết hả?”
Tiểu Thực ngạc nhiên, ngây người nửa giây, lập tức tỉnh hẳn ra. Đúng
vây! Ngô Đạo Tử là họa thánh, cho nên mới dùng nguyên liệu phản quang
để vẽ manh mối trên bức tranh. Nhưng người khác đâu phải cao thủ hội
họa, ai nói manh mối lần này nhất định có liên quan đến những bức tranh
chứ? Nghĩ đến đây, Tiểu Thực tự đập vào đầu mình. Tần Th nói không sai,
mình đúng là ngu hết chỗ nói! Nhưng thế thì rắc rối lại càng nhiều hơn rồi!
Chùa Đông Lâm này lớn như vậy, có bao nhiêu điện thờ, bao nhiêu bia đá,
bao nhiêu đất đai hoa cỏ, viên bảo châu chết tiệt kia rốt cuộc giấu ở chỗ
nào?
Tiểu Thực nghĩ muốn điên đầu cũng không ra được chút manh mối nào,
bèn hướng ánh nhìn về phía Phương Hồng Khanh, thấy Phương Hồng
Khanh đi một vòng quanh điện rồi lại bước ra vị trí phía sau điện. Tiểu
Thực vội bước theo hắn, nghiêng đều nghi ngờ nói: “Hồng Khanh, trong
Đại Hùng bảo điện không có manh mối sao?”