buộc phải bò ép sát bụng xuống; ở đôi chỗ, lòng hang chật đến mức tôi phải
nín thở thót bụng lại để trườn người qua các tảng đá. Không khí bên trong
ẩm ướt, thoang thoảng mùi mốc. Ở phía trên, tôi vẫn có thể nghe thấy tiếng
những con dơi kêu chí chóe. Ánh sáng của chiếc đèn trên mũ chỉ chiếu xa
được chừng vài mét; sau đó, bóng tối dường như là một thực thể sống
động, độc ác, chất chứa những cơn thịnh nộ cổ xưa đang ngủ say dưới lòng
núi. Chúng tôi bò như vậy chừng một giờ, cũng có thể là hai, mặc dù có lẽ
chúng tôi chưa đi được quá nửa dặm Anh. Ở đây thời gian không còn ý
nghĩa nữa.
Bất chợt, hai bàn tay tôi trượt đi trên một thứ đất lổn nhổn bẩn thỉu, và mùi
amoniac nồng nặc xộc thẳng vào phổi. Vách hang đã biến mất - ít nhất ở
phía trên đầu và hai bên. Tôi ngước mắt nhìn lên trên rồi vội vàng cúi
xuống. Trên trần hang đậu đầy dơi, chen chúc nhau chật ních như một tổ
ong, những đôi mắt sáng quắc nhìn chằm chằm xuống dưới. Khi luồng sáng
chiếu vào chúng, chúng lao xuống thành một đám đen đặc quay cuồng kêu
ầm ĩ váng óc trên đầu chúng tôi. Tôi ngồi dậy, quỳ hai đầu gối vào vũng đất
bẩn, nhắm tịt hai mắt lại, hai tay bịt chặt lấy tai cho đến khi đám dơi dần
dần bình tĩnh trở lại.
Rồi tôi nhận ra đám lổn nhổn dưới chân đang chuyển động.
Không phải là đất. Mà là phân dơi. Đám phân dơi lúc nhúc những con dế,
rết và nhện bò lổm ngổm, tất cả đều trong suốt và mù lòa.
Nhanh hết mức có thể, chúng tôi bò bằng cả tay chân qua cái hang đó, cố
gắng không nghĩ đến đám côn trùng đang lúc nhúc bên dưới cũng như tiếng
cánh dơi đập phành phạch trong không khí trên đầu. Cái hang này kì thực
cũng không lớn lắm, chỉ dài chừng mười đến mười lăm mét; không bao lâu
sau chúng tôi tới một đường ống hẹp nữa dẫn sâu vào lòng núi. Chúng tôi
phải trèo qua mấy tảng đá để tới được miệng đường ông. Tôi chui vào, tựa
lưng vào vách đá thở hổn hển.
“Cô có muốn dừng lại không?” Matthew hỏi.
Trong bóng tối, trước mắt tôi lại hiện lên tiến sĩ Sanderson và bà Quibley,
cả Athenaide nữa. Đi tới nơi nó dẫn cô, giọng nói của Roz thì thầm vang