khổng lồ, phía giữa to và tròn, hai đầu thon dần lại. Lòng tàu dài tới tám
mươi mét, rộng tám mét.
- Vỏ trong là lớp vỏ kín nước hoàn toàn - Viên kỹ sư ngồi cạnh Giôn
vẫn tiếp tục đo mảnh vỏ ngoài và thông báo - So với lớp vỏ trong; những lá
thép tạo nên vỏ ngoài mỏng hơn.
Chừng như để chứng tỏ mình cũng không đến nỗi kém cỏi lắm về
chuyên môn, người thư ký nói chen vào.
Công dụng chủ yếu của vỏ ngoài chẳng qua là để chứa nước làm tăng
trọng lượng cho tàu khi lặn xuống mà thôi. So với vỏ trong, vỏ ngoài mỏng
hơn kể cũng dễ hiểu vì nó không phải chịu sức ép của nước lớn như vỏ
trong.
Tàu ngầm dùng loại vỏ kép thế này nhất định sẽ ổn định hơn, dễ điều
khiển, cơ động. Mà dù vô ngoài có mỏng đấy nó vẫn có thể bảo vệ phần
nào được cho vỏ trong khỏi bị trúng đạn, mảnh bom hoặc ngư lôi.
Nhận ra một cái nắp rất chắc nước không thấm vào trong, đậy lên một
chỗ hình tròn làm cửa lên xuống cho thủy thủ khi tàu nổi, viên kỹ sư này
còn tìm ra khoang đặc biệt để thủy thủ trốn ra ngoài khi gặp tai nạn bất
thường.
Dần dần tất cả bẩy khoang trong tàu đều được dựng xong. Căn cứ vào
bản vẽ từng khoang, Giôn dễ dàng nhận ra khoang thứ nhất có chứa máy
phóng ngư lôi và một số ngư lôi. Khoang thứ hai có hai tầng: buồng sĩ quan
nằm trên, phía dưới là buồng ắc-quy. Khoang thứ ba là đài chỉ huy trung
ương để chỉ huy, tàu xem ra cũng không có gì đặc sắc cả nghĩa là cùng tập
trung hầu hết các khí tài, máy móc điều khiển và chỉ huy chiến đấu.
Khoang cuối cùng là khoang ngư lôi cũng vậy, ngoài máy phóng ngư lôi và
một số ngư lôi dự trữ ra, còn có buồng sử dụng vòng lái dự bị lái hướng tàu
bằng tay.
Hầu như chiếc tàu ngầm nào cũng bị phá ở khoang thứ năm và khoang
thứ sáu. Hai khoang này thông thường chỉ có thể là nơi đặt máy đi-ê-den và
máy điện.