I
Họ đã ra đi, những vị thần ấy, vào một ngày thủy triều lên rất lạ lùng.
Suốt buổi sáng, nước trong vịnh đã cồn mãi lên dưới bầu trời đục lờ như
sữa, dâng cao chưa từng thấy, với những con sóng nhỏ trườn cả đến vùng
cát khô cháy đã nhiều năm chưa từng được thấm nước trừ phi trời mưa, ì
oạp vào tận chân những đụn cát dài. Đống vỏ gỉ nát của những con tàu
hàng mắc cạn ở mãi cuối vịnh từ bao giờ chẳng ai biết chắc phải tưởng rằng
nó lại sắp được hạ thủy. Tôi đã không bao giờ bơi nữa, sau cái ngày ấy. Lũ
chim biển quang quác chao lượn hốt hoảng, có vẻ thế, trước cảnh tượng cái
bát nước khổng lồ kia đang cương phồng lên như một vết phỏng rộp xanh
lét bóng nhẫy một cách ác hiểm. Trông chúng trắng dị thường, lũ chim ấy,
ngày hôm ấy. Những con sóng đang để lại một đường viền sủi bọt vàng vọt
lấm lem suốt dọc mép nước. Không có cánh buồm nào chắn đứt đường
chân trời vòi vọi ngoài kia. Tôi sẽ không bơi nữa, không, không bao giờ
nữa.
Tôi bất giác rùng mình sợ hãi. Như vừa có một người nào đó…
Cái nhà ấy vẫn mang tên Tuyết Tùng
, như ngày xưa. Một khóm tuyết
tùng lởm chởm, nâu sì như lông khỉ và sặc mùi hắc ín, thân cành vặn vẹo
như trong ác mộng, vẫn mọc ở phía bên trái, đối diện một sân cỏ bừa bộn
ngay dưới cái cửa sổ rộng cuốn vòm của gian phòng trước đây vẫn là nơi
sinh hoạt chung của khách trọ, nhưng cô Vavasour thì hay thích gọi đó là
“sảnh đợi” với một giọng rất ra dáng bà chủ. Cửa trước của ngôi nhà quay
sang phía bên phải, mở ra một vuông sân trải sỏi lấm lem dầu mỡ nằm sau
cánh cổng sắt vẫn sơn xanh lá cây, mặc dù gỉ sét đã gặm mòn và làm nhăn
nhúm hết những hoa sắt điệu đà của nó. Tôi rất kinh ngạc thấy mọi thứ vẫn
y nguyên đến vậy trong suốt năm mươi năm có lẻ kể từ lần cuối cùng tôi ở