hồ nhận thấy một nỗi sợ đang lớn dần trong lòng. Sương mù phủ dày đến
mức tôi không nhìn thấy gì, ngay cả cái cột buồm trước mặt. Có thể tôi đã
lái thành một vòng tròn, xoay lưng lại với Vịnh Biển và hướng về Hỏa Đảo.
Cũng có thể tôi đã trôi qua ngọn hải đăng, và đang trên đường xuôi ra
Đại Tây Dương. Hoặc có thể tôi đang hướng về phía Sayville, một xóm
nhỏ trong đất liền, cách nơi tôi ở có đến hàng ngàn dặm. Tôi tiếp tục lái
thuyền với tâm trạng hoang mang, không biết liệu mình có bị mắc cạn hoặc
bị các con thuyền khác thả neo trước mũi thuyền không.
Thực sự lúc này, tôi cũng không biết mình đang đi đến đâu. Nhưng
trước cái thế giới mờ ảo đang bao trùm lên tôi lúc này, tôi chỉ tin vào bản
thân, tin vào trực giác để có đủ dũng khí tiếp tục tiến tới, thậm chí ngay cả
khi tôi không còn định hướng được nữa. Trong màn sương mù dày đặc
tưởng chừng không gì có thể xuyên thủng, tôi có cảm giác dường như mình
nghe thấy giọng nói của thuyền trưởng. Từng lời ông nói với tôi, rõ ràng
như một hồi còi báo.
Ông nhắc lại những điều mà ông đã dạy tôi trong bài học lái thuyền
đầu tiên, khi tôi đẩy cần lái sai hướng và gần như làm con thuyền đổi
hướng nhầm một cách thật nguy hiểm. Thuyền trưởng nói: “Cậu hãy buông
cần lái ra. Chỉ cần buông cần lái ra thôi. Đừng cố gắng điều khiển bánh lái
khi cậu đang bối rối”.
Tôi nghe theo lời khuyên của ông, để con thuyền tự mình xoay xở hệt
như nó có bổn phận phải làm như vậy. Nó hích nhẹ vào cơn gió và đứng
yên. Tôi đi lên phía mũi thuyền, ném neo qua khoang, rồi ngồi phía trước
mạn thuyền, chờ cho sương tan dần, hay ít nhất cũng thấy được chút ánh
sáng le lói, để biết được mình đang ở đâu và có thể định hướng.
Tuy bị nhấn chìm trong màn sương mù, không thấy đường bờ biển,
không có lấy một ngôi sao dẫn đường, không một ánh dương le lói, hay
một vầng trăng lơ lửng trên cao, nhưng tôi có đủ kinh nghiệm để hiểu rằng,