tôi thấy cha đang miệt mài bên giá vẽ, cạnh khung cửa sổ rộng nhìn ra công
viên Hudson trong căn hộ của nhà tôi ở Manhattan.
Cha lưu lại những khoảnh khắc nhộn nhịp nơi mũi đất Moorish, những
khu chợ Ả Rập, rặng cây bu-lô và rìa đá khấp khểnh của bờ biển Maine qua
nét vẽ của mình. Cha vẽ người phụ nữ Anh-điêng đang bế con, cả hai mẹ
con đều quấn quanh mình tấm vải dài màu đỏ. Cha vẽ chiếc thuyền buồm Ả
Rập với một cái buồm tam giác màu mận chín đang lênh đênh, nước biển
thì trong đến mức có thể nhìn xuyên qua châu Phi.
Còn tôi thì chốc chốc lại lượn lờ ngang xưởng vẽ, nằm ườn xuống cái
ghế dài và chăm chú quan sát những hình ảnh hiện lên từ bản vẽ của cha.
Tôi thật sự không biết mình có được thừa hưởng thiên hướng này từ cha
không, nhưng tôi thích thú với niềm tin rằng cha đã truyền lại sự lãng mạn
ấy cho tôi, và tôi chìm đắm trong những nỗ lực đến tuyệt vọng để lưu giữ
những sợi dây liên hệ dù thật mỏng manh đang kết nối giữa cha và mình.
Khi cha mất, dượng đem tôi về nuôi và ông cũng rất tốt với tôi. Dượng cho
tôi ăn học, dượng là chỗ dựa cho tôi, dượng tặng tôi con thuyền màu xanh
thật lộng lẫy, dượng cho phép tôi tự do lái thuyền.
Nhưng dượng không có được lòng đam mê nghệ thuật đến mức cháy
bỏng như cha tôi, trong khi đó là điều thường ám ảnh tôi trong những
khoảnh khắc quyết định của cuộc đời. Tôi thức dậy lúc bình minh, lúc này
gió đã lặng, mưa cũng ngừng. Nhưng màn sương mù dày đặc lại bao trùm
lên khắp mặt vịnh. Màn sương dày đến nỗi nó len lỏi vào mọi ngóc ngách,
mọi kẽ hở dọc bến cảng. Tôi cảm thấy lạnh và đói cồn cào, vả lại chỉ có
một mình trên biển, nên tôi quyết định liều, dong buồm đi gần 20 cây số để
về nhà.
Tôi quyết định với một quyết tâm cao độ và tận dụng hết các giác
quan có thể để cảm nhận hướng đi xuyên qua cái vịnh này. Tôi bỏ Ocean
Beach lại sau lưng và đi tới. Khi đã đi được nửa đường, đến giữa biển, màn
sương trông vẫn dày như cũ, chẳng có vẻ gì là đã tan bớt, bất chợt tôi mơ