uống. Bút dắt tai, lọ mực trong túi, một chiếc ô vàng, một cuộn giấy, dưới
nách lão còn kẹp theo một cuốn sách của Alan Kardec. Cả đời lão đọc cuốn
sách đó nhưng chưa bao giờ đọc hết, mới dừng ở trang ba mươi song lão
luôn tự coi mình là một tay thôn linh học. Và lão cũng chưa từng dự một
buổi lễ thông linh bởi rất sợ những linh hồn từ cõi khác. Buổi chiều lão
thường ngồi ở đâu đó trước chợ, trên một chiếc thùng và trở thành cầu nối
cho những cuộc tình đất cảng, bi kịch hóa những hoàn cảnh ốm đau cơ cực
trong gia đình cánh thợ thuyền, thậm chí viết những lời nguyện gởi Iemanja
do quá rõ cuộc sống của người dân đất cảng. Khi thấy Rufino đến lão cười
mỉm, vừa nhún vai và hỏi:
- Cô nào mới đây?
Rufino sẽ nói tên và lão sẽ viết một bức thư, cũng y như mọi bận. Và khi
gặp một người nào đó lão sẽ bỏ nhỏ một lời khuyên:
- Elisa giờ tự do đấy. Rufino bỏ ả rồi.
Và lão viết thư gởi Elisa dùm ai đó. Cứ thế lão kiếm tiền để sống, nói
đúng hơn là để uống. Có lần với mười đồng tostan lão đã sáng tác cho
Jacques một tuyệt phẩm bản thân lão cũng thấy tự hào, một bức tâm thư mà
đến giờ Judith vẫn mang trong ngực áo:
(Thương nhớ tặng VH-J)
Nhớ hôm nào anh mới gặp em
Ta đi bên nhau, trên bờ cát trắng
Biển xôn xao