khác vời, khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”.”
Ngọc chụp bức thơ, giành lại:
- Anh Lý đâu phải điên khùng như thiên hạ lầm tưởng. Anh mắc bịnh
mộng du, thiên hạ nói vậy nhưng em chưa tin. Ảnh thỉnh thoảng đến đây,
che dù, rồi bí mật nhét lá thư ở dưới chậu kiểng, chỉ riêng em mới thấy. Đó
là mưu trí.
Tôi đáp:
- Cô này lẩn thẩn quá. Không chừng cô bị truyền nhiễm tật mộng du
của hắn!
Ngọc chạy xuống nhà bếp vừa chiên cá vừa nói:
- Em thì chắc ắt lẩn thẩn. Như anh, như tất cả xóm này mới là kẻ bị
truyền nhiễm.
Rồi Ngọc trợn mắt. Trong một thoáng, tôi thấy đôi mắt nàng trợn
trắng, đứng tròng giống hệt mắt của giáo Lý. Nàng nói:
- Người ta làm gì thây kệ người ta. Mấy người sao cứ tò mò hoài?
Xóm này, có mấy thằng con trai nó mê tôi, nó không biết làm cách nào để
gởi thơ cho lọt. Tụi nó ức rồi nói xấu, gẫm đi gẫm lại, tụi nó dại dột hơn
anh Lý.
Vài năm sau tôi trở lại. Ngọc và Lý đã thành chồng vợ và sanh được
một con. Cha mẹ thầy Lý giúp tiền bạc, xây cho ngôi nhà ngói. Lý vẫn
ngâm thơ. Ngọc nói cho tôi rõ: Chồng nàng đã hết chứng mộng du nhờ đi
nhà thương Chợ Quán, bác sĩ cho uống thuốc đặc biệt. Trước đó có rước
mấy ông đạo ở Bảy Núi tới, điều trị không xong. Nhưng tôi nghi ngờ quá.
Giáo Lý đi guốc, hai chiếc hai thứ quai khác nhau, một chiếc của anh ta,