Ông tên thật là Trương Văn Khuê, sinh ngày 25-12-1932 tại xã Phước Lộc,
Long Thành, Biên Hoà, mất lúc 9:55 phút ngày 23-2-2005 tại Sài Gòn vì
bịnh ung thư phổi.
Bắc Sơn là tác giả 500 ca khúc trong đó bản dân ca “Cònthương rau đắng
sau hè” được cả nước ưa thích… Ông còn là kịch giả của 80 kịch bản, và
đã đích thân tham gia 60 vai diễn trong điện ảnh.
Ông có tất cả chín người con, nhưng chỉ có hai người con gái nối nghiệp
cha là ca sĩ Hạ Châu và nghệ sĩ Bích Lan.
Ông Bắc Sơn là một nhà giáo dạy học từ năm 1952 đến 1977.
Trên sân khấu truyền hình trước năm 1975 ông nổi tiếng là người thực hiện
“Chương trình quê ngoại” có nông dân chất phát Tư Ruộng với cô gái
quê Thu Hồng có giọng hò miền Nam ru hồn rất thanh thoát… Các vỡ kịch
của ông đều xoay quanh nghề nông với các nhân vật tuy chất phát nhưng
giàu suy ngẫm như chính người viết vốn yêu cuộc sống thanh bình…
Ông được tặng danh hiệu Nghệ Sĩ Ưu Tú ngày 3 tháng 2 năm 1977.
7) Nguyễn Tất Nhiên:
Tôi cũng không quên nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên. Nguyễn Tất Nhiên sanh
ngày 30-5-1952 (Nhâm Thìn) tại Bình Trước, Biên Hoà, tháng Bính Ngọ,
ngày Bính Tí, giờ Canh Dần, mất ngày 3-8-1992, tên thật là Nguyễn Hoàng
Hải. Thuở nhỏ, gọi là Hải khùng, sống tại xóm Gò Me, hồi chưa nổi tiếng,
trời nắng chang chang mà anh ưa mặc cái manteau mua ở khu Dân sinh, mồ
hôi nhễ nhại, ưa đạp xe đạp đi cua cô em Bắc Kỳ nho nhỏ tên Duyên; anh
nhỏ hơn tôi đúng một con giáp, tuổi Thìn; anh thường làm thơ in ronéo đi
phát không cho nữ sinh, họ đều quăng vào thùng rác, đến lúc Vĩnh Phúc và
Nguyễn Xuân Hoàng dạy trường Ngô Quyền gửi đăng ở tạp chí Sáng Tạo
của Mai Thảo, được Phạm Duy và Nguyễn Đức Quang phổ các bản "Thà
như giọt mưa vỡ trên tượng đá", "Trúc đào", "Vì tôi là linh mục", " Em hiền
như ma soeur", "Kià cô em Bắc kỳ nho nhỏ", "Hai năm tình lận đận" thì nữ
sinh ùn ùn kiếm mua thơ anh; Nguyễn Tất Nhiên sau lấy Minh Thủy, xóm
Cây Me, ở nhà gọi là Nhung, chú út tôi là Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam lấy
chị thứ ba là Minh Vân. Tác phẩm đã in: "Nàng thơ trong mắt" (1966, cùng
với Đinh Thiên Phương), "Dấu mưa qua đất" (1968), cùng với bút đoàn