theo kháng chiến theo lời chiêu dụ của hai cán bộ này. Về sau, ông về hoạt
động ở Quân Khu Bảy của Tướng Huỳnh Văn Nghệ, 1954 ông tập kết ra
Bắc, sau hồi kết hoạt động lại tại miền Nam cho đến 1975 với cấp bực Đại
tá. Hiện nay ông đã 106 tuổi vẫn còn khỏe mạnh và có rất nhiều đệ tử.
12) Huỳnh Văn Nghệ (1914-1977):
Trường hợp tướng Huỳnh Văn Nghệ là một trường hợp đặc biệt phía bên
kia mà tôi muốn nhắc tới. Ông cũng gốc xã Tân Tịch, quận Tân Uyên, sinh
ngày 2-4-1914 tại làng Tân Tịch. Thay thế tướng Nguyễn Bình, Tư lệnh
Quân khu 7, trong đó có chiến khu Đ, chỉ huy Chi đội 10 Vệ Quốc Đoàn,
Tỉnh đội trưởng Thủ Biên. Tướng Nguyễn Bình bị điệu ra Bắc và bị Việt
cộng báo cho Công an Pháp phục kích giết.
Huỳnh văn Nghệ thời còn chống Pháp là một nhà thơ yêu nước, ông đã tỏ
khí khái:
Có ai về Bắc ta theo với
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng
Từ độ mang gươm đi mở nước
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.
Vừa làm thơ vừa đánh giặc, giặc đây là giặc Pháp, ông xứng đáng là một
nhà thơ chiến sĩ.
Chiến khu Đ gắn liền với tên tuổi của Huỳnh Văn Nghệ, tướng Pháp lừng
danh Salan phải thán phục cách đánh đặc công của ông.
Chiến tích hiển hách của ông đánh dấu công trận kháng Pháp khi ông chỉ
huy Việt Minh phục kích đánh tan đoàn công voa đi Đà Lạt đốt 59 trong số
70 chiếc quân xa của Pháp tại Là Ngà, Trảng Bom quận Định quán, trên
một đoạn đường dài 9km từ cây số 104 đến cây sổ 113 trên Quốc lộ 20 giết
chết 150 lính Lê Dương và 25 sĩ quan Pháp trong số đó có viên Đại tá Pháp
De Résigné (giòng họ quý tộc), chỉ huy bán Lữ đoàn Lê Dương thứ 13 và
Đại tá Patruit, tổng Tham mưu phó đoàn quân viễn chinh, bắt sống 269 tây
đầm dân sự và chữa thương cho Trung Úy Jeffrey trước khi trao trả yên ổn
được báo chí Sàigòn đăng tải khen ngợi sự nhân đạo, dư luận bên Pháp và
Sài Gòn bàn tán xôn xao thời bấy giờ, làm thay đổi về nhận thức chiến
tranh dành độc lập. (Trần Quang Toại khi viết về trận đánh lịch sử này