Khi bạc và vàng bắt đầu được sử dụng như một phương tiện thanh toán,
trọng lượng của các kim loại được tính toán dựa theo cân nặng của đá với
trọng lượng tiêu chuẩn do nhà vua công bố. Tuy nhiên, hành vi gian lận và
lừa đảo dần trở nên phổ biến, các thương nhân sử dụng những viên đá tuy
trông giống nhau nhưng lại có mức cân nặng khác nhau, hay chỉnh sửa chiếc
cân để thu được nhiều bạc và vàng hơn.
Hành vi gian lận trở nên rất phổ biến đến mức mà Kinh Cựu Ước còn có
một số câu thơ bàn về hành vi gian lận cân nặng và độ đo. Một vài ví dụ sau
được lấy ra từ Kinh Thánh (bản của Vua James): “Các cân nặng khác nhau
và độ đo khác nhau, cả hai đều là những điều đáng ghê tởm trước Chúa”
4
và
“Một bàn cân và cái cân tiểu ly đều là những thứ thuộc về Chúa; Toàn bộ
trọng lượng của chiếc túi là mối quan tâm của Ngài”.
5
Về sau, tiền xu được nhà vua và chính quyền cho đúc với trọng lượng cố
định bằng bạc và vàng đặt trong đó. Đáng chú ý là, các kim loại quý trong
tiền xu đều hiếm có, và không thể bị làm giả. Hơn nữa, trọng lượng của
vàng hoặc bạc bên trong một đồng tiền xu là một con số xác định – và nó sẽ
quyết định giá trị của đồng xu. Việc tạo ra những đồng xu giả bằng kim loại
rẻ tiền hơn sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
Nhìn chung, những đồng tiền xu tiêu chuẩn đã giải quyết rất nhiều trở ngại
của việc sử dụng ngũ cốc hoặc kim loại làm tiền. Một trong những loại tiền
tệ đầu tiên là “Shekel”, bắt nguồn từ ngôn ngữ Akkadian của người Sumer
cổ đại, trong đó “she” có nghĩa là lúa mạch và “kel” là “trọng lượng”. Một
shekel đại diện cho một số lượng lúa mạch nhất định, với hình ảnh lúa mạch
được in trên nhiều đồng xu cổ. Người Israel vẫn gọi đồng tiền của mình là
Shekel và từ này cũng có nghĩa là “trọng lượng” hoặc “cân nặng” trong
tiếng Do Thái.
6
Trong khi đó, tiền giấy được sử dụng xuyên suốt nền văn minh cổ đại của
Trung Quốc và châu Á. Hốt Tất Liệt đã phát hành một loại tiền giấy được
chấp thuận lưu thông suốt thời đại Đế chế Mông Cổ. Nhà thám hiểm Marco