Ở đây, chỉ có những người biết con số cụ thể mà những chữ cái được di
chuyển mới có thể giải mã và đọc được đoạn tin nhắn. Ngày nay, loại mật
mã này được giải mã dễ dàng, tuy nhiên vào thời đại đó, hầu hết mọi người
đều không thể đọc hoặc viết, và bên cạnh đó cũng có rất nhiều những ngôn
ngữ khác nhau trên khắp thế giới có thể được sử dụng để mã hóa trong việc
truyền tải thông tin, chứ không nhất thiết phải là ngôn ngữ bản địa. Theo đó,
vào thời bấy giờ, phương pháp này vẫn đủ hiệu quả để các đoạn tin nhắn mã
hóa không dễ bị kẻ thù giải mã hoặc nghĩ rằng nó đã được viết bằng ngôn
ngữ nước ngoài.
Trong khi việc lưu trữ hồ sơ cùng với ngành mật mã học đã được cải tiến rất
nhiều kể từ thuở sơ khai, thì các nguyên tắc căn bản làm nền tảng cho
Bitcoin vẫn được giữ nguyên. Dữ liệu giao dịch được ghi lại trên các khối là
không thể thay đổi được, và dữ liệu đó được mã hóa bằng cách ứng dụng
mật mã học, vì vậy chỉ những người có quyền truy cập mới giải mã được.
Phải nói rằng, từ xưa tới nay, có rất nhiều những sáng tạo và sự phát kiến
quan trọng trong các lĩnh vực về lưu giữ hồ sơ và mật mã học, tuy nhiên,
chúng ta sẽ tạm gác lại để tập trung vào lịch sử của Bitcoin. Trước hết,
chúng ta sẽ tìm hiểu về khoảng thời gian những năm 1980, công trình sáng
tạo đầu tiên ra đời, mở đường cho sự hình thành Bitcoin.
David Chaum là một trong những người tiên phong trong lĩnh vực thanh
toán điện tử, ông được công nhận là người đầu tiên sáng tạo ra tiền kỹ thuật
số. Năm 1982, ông đã viết một nghiên cứu có tên là Blind Signatures for
Untraceable Payments (tạm dịch: Chữ ký mù cho khoản thanh toán không
thể truy nguyên) phác họa tổng quan cách thức các chữ ký mù có thể mã hóa
nội dung tin nhắn, trong khi vẫn cho phép xác nhận chữ ký của tin nhắn.
Đây là một trong số những công trình được ra đời sớm nhất về chữ ký mã
hóa hiện được sử dụng trong Bitcoin và nhiều loại tiền mã hóa khác.
Xử lý vấn đề giao dịch lặp chi là ngăn chặn tình trạng số tiền bị chi tiêu
nhiều hơn một lần. Với những tờ đô la Mỹ, chúng chỉ là được làm bằng giấy,