Tiền điện tử có sự riêng tư của tiền giấy, trong khi nó vẫn đạt được yêu cầu
về bảo mật cao đối với các môi trường mạng lưới điện tử thông qua những
đổi mới trong mật mã khóa công khai.”
Thông cáo báo chí này của DigiCash được phát hành vào thời điểm 14 năm
trước khi Bitcoin ra đời. Và một thông cáo báo chí với nội dung tương tự có
thể sử dụng cho Bitcoin khi nó được phát hành.
DigiCash có lẽ đã phát triển quá sớm trong lĩnh vực thương mại điện tử so
với thời đại, khi mà vào năm 1994, vẫn chưa có nhiều người dùng Internet.
Hệ quả là, năm 1998, DigiCash tuyên bố phá sản, và tài sản còn lại bị bán
cho eCash Technologies.
Trong quá trình nghiên cứu, DigiCash đã sử dụng chữ ký cá nhân/công khai
được mã hóa để ẩn giấu và xác minh nội dung tin nhắn, đồng thời là tiền
điện tử đầu tiên có đặc tính không thể truy nguyên và tránh được tình trạng
giao dịch lặp chi. Và tất cả những tính năng này đã đặt nền móng cho
Bitcoin, cũng như các đồng tiền mã hóa xuất hiện sau Bitcoin.
Khi Internet bắt đầu trở nên phổ biến, thư rác trở thành một vấn nạn. Adam
Back đã đề xuất một phương pháp chống nạn gửi thư rác tràn lan và các
cuộc tấn công từ chối dịch vụ.
Vào năm 1997, Adam Back đã tạo ra “hashcash” - một thuật toán đơn giản
sử dụng Bằng chứng Xử lý để ngăn chặn thư rác. Thuật toán Bằng chứng Xử
lý trong hashcash đòi hỏi hệ thống máy tính gửi thư điện tử phải giải đáp
một mảnh ghép toán học và đưa ra câu trả lời trong tiêu đề thư.
Một câu trả lời hợp lệ trong tiêu đề thư chính là bằng chứng cho thấy sự
đóng góp nguồn lực và công suất tính toán đã được sử dụng để gửi thư điện
tử đó. Trong trường hợp không có Bằng chứng Xử lý hợp lệ trong tiêu đề,
thư điện tử đó có thể bị lọc ra là thư rác.