Trưởng khoa Min giơ ngón tay cái về phía anh. Ý muốn tạo thêm
niềm tin và giảm bớt nỗi bất an trong anh.
Thật ra không cần hành động khích lệ của trưởng khoa Min thì anh
cũng không hề bất an. Anh biết đây là cơ hội cuối cùng, và nếu như
thất bại thì sẽ là chấm hết. Dù là với đứa trẻ hay với anh. Vì thế mà
anh không hề bất an, đến kỳ lạ. Sự căng thẳng trong anh lúc này không
hề xuất phát từ nỗi bất an.
Người bước đi trên con đường độc đạo thì không có sự lựa chọn
nào khác. Ngay cả hành động quay đầu lại với vẻ mặt bất an cũng vô
ích. Chỉ còn cách vững tin dấn bước trên con đường đó mà thôi.
Nhóm ghép đứng vây quanh giường của đứa trẻ, anh nhìn thấy
khuôn mặt đứa trẻ qua khoảng trống bên hông họ. Cả anh cả đứa trẻ
đã không hề rời mắt khỏi nhau dù trong chốc lát. Khi nhóm ghép di
chuyển che mất tầm mắt thì cả anh cả đứa trẻ đều dáo dác quay ngang
quay ngửa tìm nhau.
Thi thoảng đứa trẻ lại hướng về phía anh, khóe môi khẽ nở một nụ
cười nhợt nhạt. Mỗi khi như thế, anh lại tự nhủ rằng phải cười thật
tươi nhưng rồi đến cả một nụ cười nhạt nhòa với anh cũng trở nên khó
khăn. À không, ở một bên mắt của anh, những giọt nước mắt nóng hổi
đang cứ thế tuôn ra.
Đó là những giọt nước mắt cảm kích. Nghĩ lại quá trình đấu tranh
với bệnh tật giành giật sự sống dài đằng đẵng mà đứa trẻ đã phải trải
qua, anh không kìm nổi cảm xúc. Cầu mong cuộc ghép tủy này sẽ cứu
sống đứa trẻ. Niềm tin ấy tràn ngập trong tim anh. Nhưng không muốn
bị đứa trẻ nhìn thấy những giọt nước mắt của mình, anh liền hà hơi
vào bức tường kính và vẽ chữ V.
Thành công hay thất bại còn phụ thuộc vào quá trình phục hồi sau
ghép tủy. Vẫn còn phải chờ đợi đến khi tủy sống được ghép ổn định
trong cơ thể đứa trẻ. Nếu nhanh thì cũng phải hai tuần sau mới có thể
xác nhận được.