Là người trực tiếp chấp hành văn kiện này, trong đó có đoạn trích dẫn
trên, tôi hiểu khá rõ rằng cơ sở của nó là sự quan tâm đến cuộc tiến công sắp
tới. Vào 10 ngày cuối tháng ấy tôi lại có dịp thấy rõ thêm rằng Đại bản
doanh ngày càng đi sâu quan tâm đến việc này. Một đêm, Ph. E. Bô-cốp
triệu tập tôi đến và lệnh cho tôi báo cáo những ý kiến có liên quan đến việc
thành lập tập đoàn quân kỵ binh ở Bắc Cáp-ca-dơ.
Đồng chí nói thêm:
- Xta-lin đang chú ý theo dõi việc này.
Đề nghị cải tổ quân đoàn kỵ binh cận vệ 4 thành tập đoàn quân kỵ binh là
do I. V. Ti-u-lê-nép, tư lệnh phương diện quân Da-cáp-ca-dơ nêu lên. Dự
kiến sẽ hợp nhất vào tập đoàn quân này bảy sư đoàn kỵ binh: hai sư đoàn kỵ
binh cận vệ Cu ban 9 và 10, hai sư đoàn kỵ binh cận vệ sông Đôn 11 và 12
và các sư đoàn 30, 63, 110.
Xta-lin ngày càng quan tâm đến vấn đề ấy.
- Trên thực tế, lẽ nào không thành lập được tập đoàn quân kỵ binh ư?-Xta-
lin hỏi Bô-cốp và liền ra lệnh cho Bộ tổng tham mưu nghiên cứu vấn đề này.
Ngoài ra, Tổng tư lệnh tối cao còn đích thân hỏi ý kiến tướng N. I-a. Ki-
ri-tren-cô, tư lệnh quân đoàn kỵ binh cận
Ý kiến này thật hấp dân, ở miền Bắc Cáp-ca-dơ dường như có đủ điều
kiện để thực hiện ý định ấy: có ngựa, có cả những kỵ sĩ ưu tú người Cô-dắc
vùng Cu-ban và vùng sông Đôn và cả một không gian rộng đủ bảo đảm cho
những đội kỵ binh lớn được tự do vận động. Thêm nữa, tất cả chúng tôi vẫn
nuôi dưỡng sự khâm phục sâu sắc đối với quá khứ anh hùng của kỵ binh đó.
Tuy nhiên, vì những điều kiện của cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại đã
căn bản khác với những điều kiện của cuộc nội chiến, nên cần phải suy tính
kỹ.
Có một số quan điểm khác nhau về vai trò của kỵ binh trong chiến tranh
hiện đại, về tổ chức và phương pháp sử dụng kỵ binh. Một số người cho
rằng kỵ binh đã hết thời, kỵ binh không thể tiến công hiên ngang và đột
nhập sâu vì nó khó chống lại hỏa lực của súng tự động, vì địch có nhiều xe