mà tôi có quan hệ trực tiếp, do chức trách công tác lúc đó trong Bộ Tổng
tham mưu.
Xta-lin-grát đã ràng buộc A. M. Va-xi-lép-xki trong một thời gian lâu.
Cuối năm 1942 và đầu năm 1943, A. M. Va-xi-lép-xki hầu như bám sát
không rời khu vực chủ yếu này của mặt trận Xô – Đức.
Vì Tổng tham mưu trưởng đi vắng nên Tổng tư lệnh tối cao thường hay
gọi dây nói trực tiếp với Cục tác chiến, hỏi tình hình, đọc mệnh lệnh. Chúng
tôi luôn luôn phải trực sẵn, ngày đêm không rời vị trí công tác. Vả lại, thời
kỳ này, tôi cùng đang giữ chức quyền cục phó Cục tác chiến (Ngày 2 tháng
Tư 1943. X. M. Stê-men-cô được cử giữ chức vụ này. BT.).
Trong một số trường hợp cá biệt, I. V. Xta-lin gọi điện cho trực ban của
Bộ Tổng tham mưu là một viên tướng và truyền đạt mệnh lệnh qua đồng chí
này, không có viên tướng nào chuyên trách làm việc này cả. Khi còn B. M.
Sa-pô-sni-cốp ở đây thì đồng chí ấy đảm nhận việc đó. Các tướng lĩnh thuộc
các cục vụ khác nhau của Bộ tổng tham mưu lần lượt thay nhau thừa hành
chức trách này. Các trợ lý Bộ Tổng tham mưu lập bản danh sách đặc biệt ấn
định phiên trực của từng người. Trưởng trực ban có nhiệm vụ phải ghi bản
đồ và bao giờ cũng phải nắm chắc tình hình tại các phương diện quân và
công việc của các cục vụ chủ yếu ở Bộ Tổng tham mưu.
Địch vẫn lồng lộn tiến quân và bộ đội Liên Xô cũng dốc toàn lực để chặn
chúng lại. Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã cân nhắc kỹ những kế
hoạch tiến công sắp tới, đặt nền móng cho những chiến dịch quyết định
nhằm tiêu diệt quân địch ở cả Xta-lin-grát lẫn ở Bắc Cáp-ca-dơ. Tôi còn nhớ
bản chỉ thị của Tổng tư lệnh tối cao ngày 15 tháng Mười năm 1942. Giữa lúc
đang chiến đấu phòng ngự quyết liệt ở Tê-rếch, thì bản chỉ thị đã nhắc bộ tư
lệnh phương diện quân Da-cáp ca-dơ lưu ý đến Cụm Biển Đen:
“Thấy các đồng chí hay lui tới quan sát bộ đội ở Cụm phía Bắc và dồn
phần lớn binh lực cho cụm này. Đại bản doanh cho rằng các đồng chí đã
đánh giá thấp ý nghĩa của Cụm Biển Đen và vai trò chiến dịch – chiến lược
của bờ Biển Đen”.