chống lại cụm quân địch ở Đôn-bát, cùng đã gửi về nhưng tin tức tương tự.
N. Ph. Va-tu-tin cũng đánh giá tính chất hoạt động của địch là một sự bỏ
chạy về phía bên kia sông Đni-ép-rơ.
Thực ra, bộ chỉ huy Đức không có ý định rút quân sang phía bên kia sông
Đni-ép-rơ. Trong khi rút lui và phòng ngự, chúng đã chuẩn bị phản kích.
Trận thất bại ở Cô-ten-ni-cô-vô chỉ buộc được chúng phải tạm thời từ bỏ
những hoạt động tích cực trên một quy mô lớn. Địch vẫn chưa bỏ âm mưu
phục thù cho trận Xta-lin-grát và hy vọng giành lại quyền chủ động chiến
lược. Ngược lại, việc ta đánh cho chúng thất bại nặng ở những đồng cỏ vùng
sông Đôn và tiêu diệt Cụm tập đoàn quân “B” ở Vô-rô-ne-giơ, cũng như
những hậu quả nảy sinh từ tình hình ấy đã buộc các tướng lĩnh Hít-le phải có
những biện pháp đặc biệt.
Vì không cỏ đủ lực lượng dự bị ở hậu phương trực tiếp để triển khai hành
động tiến công quy mô lớn, địch đã cố xây dựng những lực lượng xung kích
bằng cách tập hợp lại và điều quân của chúng từ Tây Âu sang. Nhưng, làm
như vậy cần có thời gian. Để tranh thủ thời gian, gĩư vững Đôn-bát và bảo
đảm có những tuyến xuất phát thuận lợi để phản công, bọn Đức đã chuyển
sang phòng ngự bằng những trận địa tiền tiêu dọc theo Bắc Đô-ne-txơ và hạ
lưu sông Đôn.
Chiến trường chính (các tướng lĩnh Hít-le gọi nơi tập trung những cố gắng
phòng ngự lớn nhất của chúng như vậy) dựa vào sông Mi-u-xơ. Số quân
Đức đổ bộ xuống tuyến này do tướng Man-stai-nơ chỉ huy đã nhập vào Cụm
tập đoàn quân “Sông Đôn” (từ ngày 12 tháng Hai năm 1943, cụm tập đoàn
quân này đổi tên thành Cụm tập đoàn quân “nam”.).
Chủ lực quân địch ở vùng này là những lực lượng trước đây đã ở khu vực
mặt trận Xta-lin-grát và một phần ở Bắc Cáp-ca-dơ. Đặc biệt, hai tập đoàn
quân xe tăng Đức 1 và 4, quả đấm cơ động mạnh của bọn địch, cũng đã
được đưa đến đây. Dưới quyền sử dụng của Man-stai-nơ còn có một số lớn
máy bay, bố trí một cách thuận tiện trên các sân bay và hoàn toàn được bảo
đảm về xăng dầu.