Việc phân tích cặn kẽ những thủ đoạn tác chiến của địch trong những
chiến cục trước đây đã buộc chúng ta còn phải chú ý đến một tình huống
nữa: địch có thể triển khai những hành động yểm hộ hoặc những hành động
thu hút trong các dải hoạt động của bất kỳ phương diện quân nào của chúng
ta ở cánh phía Nam.
Vì vậy, ngay trước ngày 20 tháng Tư, Đại bản doanh và Bộ tổng tham
mưu đã kiểm tra tình trạng phòng ngự của gần hết mọi nơi trong các dải tiền
tuyến, và cố nhiên, đã phát hiện ra nhiều thiếu sót. Nhân đó, ngày 21 tháng
Tư, Xta-lin đã ký nhiều chỉ thị đặc biệt gửi cho tất cả các phương diện quân,
trừ hai phương diện quân Lê-nin-grát và Ca-rê-li-a.
Càng tiến dần đến bước ngoặt quyết định trong quá trình chiến tranh, Bộ
tổng tư lệnh tối cao Liên Xô càng tăng cường quan tâm đến lực lượng dự bị
chiến lược: bố trí chúng ở đâu và thể thức sử dụng chúng ra sao? Đại bản
doanh có ý định xây dựng một phương diện quân dự bị đặc biệt từ đầu tháng
Ba.
Như đã nói ở trên, đến ngày 13 tháng Ba, ta đã thành lập phương diện
quân ấy gồm ba tập đoàn quân binh chủng hợp thành (tập đoàn quân dự bị 2,
các tập đoàn quân 24, 66) và ba quân đoàn xe tăng (quân đoàn xe tăng cận
vệ 4 và các quân đoàn xe tăng 3, 10). Trong tháng Tư, phương diện quân
này đã được tăng cường đáng kể: đội ngũ của nó có thêm ba tập đoàn quân
binh chủng hợp thành (46, 47 và 53), một tập đoàn quân xe tăng (tập đoàn
quân xe tăng cận vệ 5), một quân đoàn xe tăng nữa (quân đoàn 1) và hai
quân đoàn cơ giới (1 và 4).
Phương diện quân cũng đã mang nhiều tên khác nhau theo thời gian: lúc
đầu là phương diện quân Dự bị (từ 10 đến 15 tháng Tư), sau là quân khu
Tháo nguyên và cuối cùng là phương diện quân Thảo nguyên (từ 9 tháng
Bảy đến 20 tháng Mười). Như sau đây, bạn đọc sẽ thấy, việc đổi tên có bao
hàm một ý nghĩa nhất định, nhưng thực chất có tính nguyên tắc của những
lực lượng dự bị chiến lược vẫn không thay đổi.