kiên quyết đặt ra trước các nước Đồng minh vấn đề mở mặt trận thứ hai mà
họ rõ ràng đã cố ý trì hoãn. Xta-lin đã nhiều lần bảo tôi phải nắm chính xác
số sư đoàn địch và chư hầu của chúng trên mặt trận Xô – Đức cũng như trên
mặt trận giữa Đức và các nước Đồng minh.
Những số liệu này đã được sử dụng ngay trong ngày đầu của hội nghị.
Chúng là một cây “chủ bài” trong tay phái đoàn Liên Xô, khi bàn đến vấn đề
rút ngắn thời hạn chiến tranh, mở ngay mặt trận thứ hai, hoặc như những
nước Đồng minh thường nói: thực hiện kế hoạch “Ô-véc-lo-dơ”. Những con
số về tương quan lực lượng hai bên đã đập thẳng vào mắt Sớc-sin, bóc trần
mọi mưu toan của ông ta nhằm lấy những chiến dịch thứ yếu thay cho mặt
trận thứ hai.
Dựa vào những số liệu ấy, Xta-lin đã chỉ ra rằng: trong năm 1943, do tính
tiêu cực của các nước Đồng minh, bộ chỉ huy Đức đã có thể tập trung được
nhiều tập đoàn đột kích mới chống lại quân đội ta. Và, đồng chí thông báo
ngay về những tình huống phức tạp trên mặt trận Xô – Đức, kể cả ở Cô-rô-
xten và ở Ki-ép nói chung.
Một trong những vấn đề trung tâm của hội nghị là: xác định thế nào là
mặt trận thứ hai và nên mở mặt trận này ở đâu. Phái đoàn Liên Xô buộc phái
đoàn Anh thừa nhận rằng, chiến dịch “Ô-véc-lo-dơ” phải là chiến dịch chủ
yếu của các nước Đồng minh. chiến dịch này phải được bắt đầu chậm nhất là
tháng Năm sang năm và nhất thiết phải tiến hành trên lãnh thổ miền Bắc
nước Pháp.
Để bảo vệ quan điểm đúng đắn này. Xta-lin đã phân tích gọn nhưng rất
cặn kẽ, những khả năng các nước Đổng minh tiến đánh Đức từ những hướng
khác. Phương án những chiến dịch ở Địa Trung Hải và trên bán đảo A-pen-
nin – nơi quân đội Đồng minh đang tiến tới Rô-ma- đã được phân tích tỉ mỉ
hơn cả.
Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô coi chiến dịch Địa Trung Hải là chiến
dịch thứ yếu, vì địch ở đây có tương đối ít lực lượng và chiến trường này lại
ở xa lãnh thổ Đức. Còn đề cập tới chiến trường I-ta-li-a, phái đoàn Liên Xô
thừa nhận rằng chiến trường này là rất quan trọng để bảo đảm cho tàu bè