“Cả đời ta chưa bao giờ được nhìn thấy một con chó bắt chuột,” bà
Nordley đang ngồi cạnh tôi lên tiếng.
“Nó là một con chó đặc biệt ạ,” tôi trả lời.
“Ta cũng đoán thế.”
Winn-Dixie đứng thẳng lên đầy kiêu hãnh trước toàn thể nhà thờ, vẫy
đuôi và giữ con chuột thật cẩn thận trong miệng, giữ chặt nhưng không
nghiền nát nó.
“Chắc chắn nó là chó lai,” ai đó phía sau tôi lên tiếng. “Một con chó săn.”
Winn-Dixie mang con chuột đến chỗ ngài mục sư, thả nó xuống ngay
dưới chân ông. Khi con chuột cố gắng thoát thân, Winn-Dixie đặt một chân
lên đuôi nó, toét miệng cười với ngài mục sư, khoe cả hàm răng của mình.
Ngài mục sư nhìn xuống con chuột, rồi nhìn Winn-Dixie, rồi nhìn tôi. Ông
khẽ bóp nhẹ cái mũi của mình. Hãy-chọn-nhanh bỗng chốc trở nên im lặng
một cách kỳ lạ.
“Chúng ta hãy cầu nguyện,” ngài mục sư cuối cùng cũng lên tiếng, “cho
con chuột này.”
Mọi người ồ lên cười và vỗ tay thích thú. Ngài mục sư túm lấy đuôi con
chuột, bước tới và quăng con chuột ra ngoài cửa chính. Mọi người lại vỗ tay
tán thưởng một lần nữa.
Ông quay trở vào và chúng tôi tất cả cùng cầu nguyện. Tôi cầu nguyện
cho mẹ tôi. Tôi nói với Chúa rằng bà chắn chắn sẽ thích thú như thế nào khi
nghe kể chuyện Winn-Dixie đuổi bắt chuột. Có thể nó sẽ khiến bà cười. Tôi
hỏi Ngài liệu tôi có thể kể bà nghe câu chuyện này một ngày nào đó hay
không.
Và tôi kể với Chúa tôi đã cô đơn như thế nào ở Naomi bởi tôi không có
nhiều bạn ở đây, trừ những đứa trẻ ở nhà thờ, mà ở Cánh tay Rộng mở này