bị từ chối. London đang chìm trong sương mù. Cuối cùng, máy bay hạ cánh
ở Brussels. Gutfreund bắt được chuyến bay Sabena 130 đến New York, máy
bay hạ cánh tại sân bay quốc tế Kennedy lúc 6 giờ kém vài phút.
Mặc quần chùng bằng vải nhung và áo thể thao, Gutfreund lên chiếc
máy bay trực thăng do Shearson sắp xếp, và đến trụ sở của Salomon ở khu
hạ Phố Wall trong 15 phút, ở đó, ông vào phòng họp và gặp hai cố vấn, Peter
Darrow, luật sư lâu năm của ông, có dáng người cao lêu ngêu, và Mike
Zimmerman, một nhân viên ngân hàng đầu tư của Salomon, ăn nói rất lưu
loát. Trong tay họ là bản sao thỏa thuận quản lý của Johnson.
“Ông sẽ không bao giờ tin điều này,” Zimmerman nói.
Gutfreund lấy một bản sao và đọc. Ông giật mình. Thỏa thuận này béo
bở hơn nhiều so với những gì Cohen đã nói bóng gió. Nếu diễn giải chính
xác thì nhóm bảy người của Johnson sẽ được hưởng 1 tỷ đô-la, có thể nhiều
hơn, miễn phí. Darrow cùng Gutfreund kiểm tra từng điểm của thỏa thuận.
Họ nhận ra một điều quan trọng là họ đã tự đưa mình vào vụ này.
Nửa giờ sau khi đến Shearson, Gutfreund chẳng chần chừ đưa ngay bản
thỏa thuận quản lý ra nói với Cohen. “Tôi sắp có một đống những khó khăn,
và vì ta cùng chung một thuyền, chúng ta sẽ có một đống khó khăn, trừ khi
gói thỏa thuận đó có thể giảm bớt điều khoản đi,” Gutfreund nói. “Peter, thật
không thỏa đáng”
“John, tôi hứa với anh rằng nó sẽ được xử lý,” Cohen nói. Nhưng, anh
nói thêm, việc sửa đổi thỏa thuận sẽ chẳng có nghĩa lý gì cho đến khi họ
hiểu rõ hơn về mức độ tăng lên của giá thầu.
Thấy nhẹ lòng, Gutfreund đồng ý. Phải đợi thôi.
Các nhân viên ngân hàng bên nhóm của Shearson và Salomon làm việc
đến đêm muộn hôm thứ Sáu và cả ngày thứ Bảy. Cả hai công ty đã phải huy
động các nhân viên giao dịch và nhân viên bán hàng ở London và Tokyo
trong cuộc tranh giành để có được những cam kết tài trợ vốn từ một loạt các
ngân hàng nước ngoài. Một nhóm khác do Jim Stern dẫn đầu đã cố gắng xây
dựng một cấu trúc vốn thỏa hiệp để Forstmann có thể chấp nhận.