XIX
Một ngày sau.
Đặt cẩn thận lên bàn phòng khách cây gậy đi đường có nhiều mấu, chiếc tẩu
thuốc và cái túi vải cũ kỹ, Sulet đến chào bà Mactanh đang ngồi đọc trước cửa
sổ. Ông ta sẽ đi Axxidơ. Mình khoác tấm áo da dê, ông nom có vẻ như những
ông lão chăn cừu trên những bức tranh Thiên chúa giáng sinh.
- Tạm biệt bà. Tôi xin tạm biệt Phidơn, tạm biệt bà lẫn Đơsactrơ cùng ông
hoàng Anbectinenli bảnh trai và con yêu tinh Ben rất mực dễ thương. Tôi sẽ đi
thăm núi Axxidơ. Chúng ta không nên gọi là núi Axxidơ nữa, mà là núi
phương Đông vì lẽ mặt trời tình yêu mọc ở đó. Tôi sẽ đến quỳ trước ngôi một
được ban phước lành, nơi có thánh Phrăngxoa trần trụi nằm nghỉ bên dưới,
trong một cái âu bằng đá và đầu đặt trên một chiếc gối cũng bằng đá. Ngài
không muốn mang theo, dù chỉ một tấm vải liệm của cõi trần thế này, nơi ngài
khám phá ra cái bí ẩn của mọi niềm vui và mọi tấm lòng nhân hậu.
- Xin tạm biệt ông, ông Sulet. Ông nhớ mang về cho tôi một chiếc huy hiệu
nữ thánh Clerơ. Tôi rất yêu nữ thánh Clerơ.
- Bà nói rất có lý, thưa bà. Clerơ là người phụ nữ đầy nghị lực và rất mực
khôn ngoan. Khi thánh Phrăngxoa ốm đau và hầu như mù lòa đến nghỉ vài
hôm ở Xanh Đamiông, tại nhà bà, Clerơ tự tay mình dựng cho ông một túp lều
trong vườn. Ông mừng lắm. Mệt mỏi, đau đớn, hai mí mắt như bị cháy bỏng,
ông không sao yên giấc. Những con chuột to tướng kéo đến quấy nhiễu ông
suốt đêm. Ông bèn làm một bài thánh ca hào hùng ca ngợi Người anh Mặt trời
rực rỡ và Người chị Nước trinh khiết, hữu ích và trong lành. Những bài thơ
hay nhất của tôi, kể cả những bài về khu Vườn cấm, cũng không dễ hấp dẫn và
huy hoàng một cách tự nhiên như bài thánh ca ấy. Và như thế là phải, vì tâm