- Thôi chào bà nhé.
- Hãy gượm, đi đâu mà vội, để tôi bảo nó ra giàn hái mấy là trầu
không, ăn một miếng đã.
Nhưng chị Pha nóng ruột nói:
- Để đến chiều. Thôi tôi đi đây.
Chị Pha tất tả lên huyện. Qua cánh đồng lúa má xanh tốt, chị mừng thầm
năm nay được mùa. Chị tạt qua ruộng nhà xem có hũ rượu lậu nào không,
trời trưa nắng, gió mát rười rượi làm chị càng hăm hở đi cho chóng đến nơi.
Đến phố huyện, qua các hàng cơm nào chị cũng hỏi thăm, nhưng chẳng ai
biết chồng chị là ai cả.
Chị càng bối rối. Giữa lúc ấy chị nghe có hồi trống rắn rỏi trong huyện, chị
biết rằng chỉ vào đó, hỏi thăm lính mới rõ.
Chị tiến vào cổng huyện, thấy người lính canh, xà cạp, thắt lưng da, ngồi
trên chiếc ghế đẩu, chống súng xuống đất thì ngập ngừng. Chị ngả nón,
đánh bạo đến gần hỏi:
- Thưa thầy quyền, thầy làm phúc bảo cháu, nhà cháu có trong nhà này
không?
Thấy câu hỏi vẩn vơ, người lính nhìn rất oai vệ. Nhưng khi đã trông rõ rằng
người đàn bà ngớ ngẩn này tuy xấu, nhưng còn đôi vú vớt vát được, nên
anh ta dịu ngay mặt, nhăn nhở trỏ vào cái nhà gạch cao ở cạnh, cười đáp:
- Có, chị muốn hỏi thăm nhà chị, thì vô khối trong kia.
Nói đoạn, hắn túm ngay lấy nón chị Pha. Chị hãi giật lùi lại, nhưng không
kịp.
- Lạy thầy, thầy cho cháu xin, cháu đi tìm nhà cháu đây mà.
Người lính nhìn chị Pha rất tình tứ, đáp:
- Biết rồi, có nói tử tế thì đằng này trả, không thầy thầy cháu cháu gì
cả. Lại đây bảo: người đâu gặp gỡ làm chi, trăm năm biết có duyên gì hay
không.
Chị Pha vốn chẳng phải nữ sĩ, nên câu văn chương kia, chị chẳng hiểu gì.
Song cũng đoán biết là thầy quyền ghẹo mình nên trống ngực chị nổi lên,
chị van lạy:
- Lạy thầy, cho cháu xin, cháu có chồng con rồi.