chiếm được một hệ thống thuộc địa bao gồm khoảng 12 triệu km
2
và gần 40 triệu dân.
Trong những năm tiếp liền theo cuộc chiến tranh 1870, giữa
1871 và 1880 mà người ta có thể coi như một thời kỳ lắng đọng, có
thể ghi nhận một vài thái độ có chiều hướng lẩn tránh, nhưng cạnh
đó có bao nhiêu sự kiện chứng minh rằng không hề có tinh thần
“bỏ cuộc” chút nào. Ngược lại, người ta thấy một ý chí bành trướng
rất rõ nét và có trước cả hoạt động của Jules Ferry.
Năm 1871 tại Algérie, chiến dịch đàn áp cuộc nổi dậy của người
Kabyles được khơi mào, do ý muốn rút ra được những mối lợi tối
đa cho công cuộc thực dân hóa
. Năm 1876 tại Sénégal, thống
đốc Briérde l’Isle lấy lại dự án Faidherbe: bình định và tiến về
sông Niger. Năm 1878 tại Dahomey, một hiệp ước xác nhận xứ
Cotonou là nhượng địa của Pháp. Từ 1875, Brazza tiến hành những
chuyến thăm dò ở Congo nhờ có sự bảo vệ chính thức của chánh phủ.
Tại Việt Nam như chúng ta đã thấy, những ý đồ thương mại của
Jean Dupuis đã được nối tiếp bằng cuộc chinh phục vùng châu
thổsông Hồng của Francis Garnier. Hiệp ước 1874 thừa nhận chủ
quyền toàn vẹn của Pháp trên đất Nam kỳ; nó chứa đựng mầm
mống của chế độ bảo hộ đối với Việt Nam, chưa nói đến bao
nhiêu quyền lợi thương mại giành được vài ba tháng sau đó. Sự
nghiệp của các ông Đô đốc cầm quyền đã làm được tiếp, đó là của
ông thống đốc dân sự đầu tiên, Le Myre de Vilers, chứng tỏ ý chí
quyết tâm thiết lập một chế độ thuộc địa vĩnh viễn của Pháp lên
đất nước Việt Nam.
Tại các phần khác của thế giới cũng chẳng hề có chính sách từ
bỏ xâm chiếm chút nào. Chính sách thực dân cứ tiếp tục tại
Nouvelle-Caledonie đã gây ra cuộc nổi loạn lớn của người Canaques
năm 1878
. Một hiệp định được ký kết, cũng trong năm đó, giữa