Cooper đọc, “DHA, C22:6n-3 - axít docosahexaenoic.”
“Dầu cá,” Rhyme nói, mắt nhìn vào màn chiếu hình ảnh từ kính hiển vi.
“Và với cái màng này, mọi người có thấy ở góc phải bên trên không? Tôi
cho đây là trứng cá: trứng cá thường. Hoặc trứng cá muối.”
“Còn có ít C
8
H
8
O
3
nữa,” Cooper nói.
“Tôi chịu,” Rhyme làu bàu.
Việc tra cứu mất ba mươi giây. “Vanillin.”
“Chất chiết xuất từ vani ư?”
“Đúng vậy.”
“Thom! Thom, vào đây. Cậu đang ở nơi khỉ gió nào vậy?”
Giọng cậu hộ lý dạt vào phòng. “Anh cần gì?”
“Cần cậu có mặt ở đây. Trong phòng.”
Xắn tay áo xuống, cậu hộ lý nhập bọn. “Tôi làm sao kháng lại được lệnh
triệu tập lịch sự như thế chứ?”
Sachs cười.
Rhyme chau mày. “Nhìn chỗ biểu đồ kia đi, Thom. Vận dụng kỹ năng
ẩm thực của cậu. Nói tôi biết suy nghĩ của cậu về những mục đấy, biết rằng
axít docosahexaenoic và C
8
H
8
O
3
lần lượt là trứng cá muối và vani.”
Cậu hộ lý đứng nhìn các biểu đồ một hồi. Mặt cậu chuyển thành một nụ
cười. “Quen lắm… Chờ chút.” Cậu đi đến một máy tính gần đó rồi truy cập
báo New York Times. Cậu duyệt mạng ít lâu. Rhyme không thấy chính xác
cậu ta đang xem cái gì. “Chà, hay thật.”
“À, cậu chia sẻ cái đoạn hay đấy được không?”
“Hai hiện trường vụ án kia - Lydia Foster và Java Hut - có dấu vết của
atisô và cam thảo, đúng không?”
“Đúng,” Cooper xác nhận.
Cậu xoay máy tính cho họ nhìn. “Chà, kết hợp những thành phần đấy với
trứng cá muối và vani là ta có một món cực đắt tiền được phục vụ tại
Patchwork Goose. Gần đây có bài báo viết về chính món này trong mục
Ẩm thực đấy.”
“Patchwork… cái quái gì thế?” Sellitto làu bàu.