C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN TOÀN TẬP - TẬP 2 - Trang 227

càng đắt. Mãi đến thế kỷ trước mới bắt đầu dùng than đá đã được luyện (than cốc), và từ năm
1780 người ta mới phát minh một phương pháp mới cho phép biến quặng sắt đã nấu chảy
trong lò than cốc, thành sắt rèn được, mà trước đó chỉ có thể thu được gang. Đó là phương
pháp rút các-bon bị trộn lẫn trong sắt khi sắt nung chảy, mà người Anh gọi là phương pháp
pút-lin; phương pháp này đã mở ra cho nền sản xuất sắt ở Anh một trường hoạt động hoàn
toàn mới. Người ta xây những lò cao lớn gấp năm mươi lần so với trước kia; người ta đơn
giản hoá việc nấu chảy quặng bằng cách thổi gió nóng, và nhờ vậy mà sản xuất được sắt rẻ
đến nỗi có thể dùng để làm vô số đồ trước kia làm bằng gỗ hoặc bằng đá. Năm 1788, Tô-mát
Pê-nơ
một nhà dân chủ nổi tiếng, xây dựng chiếc cầu sắt đầu tiên ở Y-oóc-sia, và liền sau đó,
hàng loạt cầu sắt khác xuất hiện; cho đến ngày nay thì hầu hết các cầu, nhất là các cầu đường
xe lửa, đều làm bằng gang, và ngay ở Luân Đôn, trên sông Têm-dơ, cũng có một cái cầu xây
dựng bằng vật liệu ấy (cầu Xao-tơ-oác); những cột sắt, bệ máy làm bằng sắt, v.v., đã trở
thành rất phổ biến, và từ khi dùng đèn khí và đường sắt thì việc sản xuất sắt ở Anh lại có
những lĩnh vực tiêu thụ mới. Dần dần nhờ có máy móc người ta đã bắt đầu sản xuất cả ốc vít
và đinh nữa. Năm 1760 Hơn-tơ-xmen, sinh trưởng ở Sép-phin-đơ, đã phát minh ra phương
pháp đúc thép bỏ được rất nhiều động tác thừa và làm cho có thể sản xuất nhiều sản phẩm rất
rẻ mà trước kia chưa từng biết đến. Nhờ chất lượng của nguyên liệu cao hơn, cũng như nhờ
công cụ cải tiến hơn, nhờ trang bị máy móc mới và nhờ sự phân công lao động quy mô lớn
việc sản xuất đồ dùng bằng kim loại ở Anh lần đầu tiên trở nên quan trọng. Dân số Bớc-
minh-hêm
tăng từ 73000 (năm 1801) lên 20 vạn (năm 1844), dân số Sép-phin-dơ từ 46000
(năm 1801) lên 11000 (năm 1844) và chỉ riêng một thành phố này năm 1836 đã tiêu thụ hết
515000 tấn than. Năm 1805 xuất khẩu 4300 tấn đồ dùng bằng sắt và 4600 tấn gang; năm
1834, xuất khẩu 16200 tấn đồ dùng bằng sắt
và 107000 tấn gang, và tổng sản lượng sắt năm 1740 không quá 17000 tấn, năm 1834 lên tới
700 000 tấn. Hàng năm riêng số than dùng để luyện gang đã tiêu thụ hết hơn 3 triệu tấn; thậm
chí rất khó hình dung nổi tầm quan trọng lớn lao của các mỏ than trong sáu mươi năm trở lại
đây. Tất cả các mỏ than trên đất Anh và đất Xcốt-len bây giờ đều được khai thác, và chỉ riêng
những hầm mỏ ở Noóc-tơm-bớc-len Đớc-am hàng năm đã sản xuất hơn 5 triệu tấn than để
xuất khẩu và dùng từ 40 000 đến 50 000 công nhân. Theo tin tức của tờ "Durham Chronicle"
việc khai thác hầm mỏ trong hai tỉnh đó như sau:

năm 1753: 14 hầm mỏ

năm 1800: 40 hầm mỏ

năm 1836: 76 hầm mỏ

và năm 1843: 130 hầm mỏ

Mặt khác, tất cả các hầm mỏ ngày nay đều được khai thác khẩn trương hơn trước nhiều.

Việc khai thác các mỏ thiếc, mỏ đồng và mỏ chì cũng phát triển tương tự, và đi đôi với sự
phát triển sản xuất thuỷ tinh, một ngành công nghiệp mới là sản xuất đồ gốm cũng hình
thành, ngành này khoảng năm 1763 nhờ Giô-đi-a Uết-giơ-út mà trở nên rất quan trọng. Ông

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.