như vậy. Ngoài ra phải kể thêm 2270 cái sân sau (courts), tức là khoảng trống nhỏ, xung
quanh đều là nhà và chỉ có một lối nhỏ đi vào, thường có vòm che kín cho nên hoàn toàn
không thông gió, phần nhiều rất bẩn và hầu hết là những người vô sản ở. Chúng ta sẽ có dịp
nói tỉ mỉ hơn về những cái sân này khi đề cập đến Man-se-xtơ. Ở Bri-xtơn, người ta có lần
điều tra 2800 gia đình lao động, 46 phần trăm trong số đó chỉ có một phòng.
Tình hình những thành phố công xưởng hoàn toàn như thế. Ở Nốt-tinh-hêm có tất cả 11
000 ngôi nhà thì 7 - 8 nghìn ngôi tường sau xây dựa vào nhau nên không thể có một chút gió
nào lọt qua được; thêm nữa, thường thì nhiều nhà mới có một hố tiêu. Một cuộc điều tra mới
đây cho thấy nhiều dãy nhà xây dựng trên những rãnh thoát nước nông, chỉ có một lượt ván
lát trên mặt làm sàn nhà. Ở Lê-xtơ, Đớc-bi và Sép-phin-đơ cũng vậy. Bài báo của tờ
"Aritizan" dẫn ở trên nói về Bớc-minh-hêm như sau:
"Trong những khu vực cũ của thành phố có nhiều chỗ tồi tàn, bẩn thỉu, không ai đoái hoài đến, đầy những vũng bùn và
những đống rác lưu niên. Ở Bớc-minh-hêm có rất nhiều sân, tới hơn 2000 cái chính là chỗ ở của phần lớn nhân dân lao
động. Những sân đó bao giờ cũng rất chật chội, bẩn thỉu, bí hơi, cống rãnh rất tồi tệ, xung quanh một cái rãnh thường có từ
tám đến hai mươi ngôi nhà mà thường không khí chỉ vào có một mặt, vì tường sau lại dính với một nhà khác và ở cuối mỗi
sân thường có một hố đổ rác hoặc những vật tương tự, hết sức bẩn thỉu. Tuy nhiên, phải nhận thấy rằng những sân mới xây
dựng được sắp đặt hợp lý hơn và giữ gìn khá tốt hơn; và ngay cả trong các sân cũ, nhà cửa cũng không chen chúc nhau như
ở Man-se-xtơ hoặc Li-vớc-pun, điều này cắt nghĩa tại sao trong những kỳ có bệnh dịch, ở Bớc-minh-hêm số người chết ít
hơn nhiều so với Uôn-vơ-hem-tơn. Đát-li và Bin-xtơn
là những thành phố cách đó chỉ mấy dặm. Ở Bớc-minh-hêm người ta cũng không ở nhà hầm, tuy rằng đôi khi còn sử dụng
hầm không đúng cách để làm xưởng thủ công. Các nhà trọ cho dân vô sản cũng có khá nhiều (hơn 400), chủ yếu là trong các
sân ở trung tâm thành phố. Hầu hết là những chỗ ẩm thấp và bẩn thỉu đến lợm mửa, là chỗ ẩn thân của bọn ăn mày, và bọn
lêu lổng" (trampers, về nghĩa chính xác của chữ này, sẽ nói kỹ hơn ở phía dưới), "những kẻ cắp và gái điếm, bọn này sống ở
đây không hề quan tâm đến lễ độ và tiện nghi, ăn uống, hút và ngủ trong một bầu không khí mà chỉ những con người truỵ
lạc như họ mới có thể chịu được".
Gla-xgô về nhiều mặt cũng giống như Ê-đin-bớc, cũng những đường ngoắt ngoéo (wynds),
cũng những ngôi nhà ngất nghểu như thế. Tạp chí "Artizan" đã nhận xét về thành phố đó như
sau:
"Ở đây, giai cấp công nhân chiếm chừng 78 phần trăm tổng số cư dân" (gần 300 000 người) "họ ở những khu phố còn
nghèo nàn và ghê tởm hơn cả những hang ổ tồi tệ nhất ở Xanh-Gin và ở Oai-tơ-sê-pen, những vùng ngoại ô ở Đu-blin và
những wynds ở Ê-đin-bớc. Những khu như thế có rất nhiều ở trung tâm thành phố - ở phía nam Tơ-rơn-ghết, phía tây chợ
Muối, trong khu Can-tơ, sau phố Cao, v.v.; đó là những ngõ hẹp và những đường ngoắt ngoéo, chằng chịt với nhau, lắt léo
không cùng, ở đó cứ vài bước lại gặp những sân hoặc những ngõ cụt, gồm những ngôi nhà cũ kỹ, sắp đổ, những tầng thấp, bí
hơi và không có ống nước. Những nhà ấy đúng là chật ních người. Mỗi tầng có một, ba hoặc bốn gia đình, có khi đến hai
chục người, có khi mỗi tầng lại cho thuê làm nhà ngủ trọ, và trong mỗi phòng nhét đến mười lăm, hai mươi người, không
thể nói là ở, mà là chồng chất lên nhau. Các khu phố ấy là chỗ nương thân của những kẻ nghèo khổ nhất, truỵ lạc nhất, đạo
đức đồi bại nhất trong cư dân và nên xem là chỗ bắt nguồn của những bệnh dịch sốt truyền nhiễm ghê gớm lan tràn ra khắp
cả Gla-xgô".