khác làm cho người ta rất vui thích. Chính bản thân họ cũng đã từng chịu đựng số phận ngặt
nghèo cho nên họ biết cảm thông với những người khổ cực. Đối với họ thì người nào cũng là
người, còn đối với người tư sản thì người công nhân chưa hoàn toàn là con người. Vì thế cho
nên người công nhân nhã nhặn hơn, ân cần hơn và mặc dầu họ túng tiền hơn giai cấp có của,
họ cũng vẫn không hám tiền bằng; đối với họ, giá trị của tiền bạc là ở chỗ nó mua được cái
gì, con đối với người tư sản thì tiền có một giá trị cố hữu đặc biệt, một giá trị thần thánh và
làm cho người tư sản trở thành "người kiếm chác tiền" nhuốc nhơ, ti tiện. Người công nhân
không hề có tư tưởng sùng bái đồng tiền, không tham lam như người tư sản là kẻ sẵn sàng
làm bất cứ cái gì để kiếm chác được nhiều tiền hơn, kẻ chỉ có mỗi mục đích trong đời là làm
đầy thêm túi tiền của mình. Vì thế cho nên so với người tư sản, người công nhân ít thiên kiến
hơn nhiều, dễ tiếp thu hiện thực hơn nhiều, và không nhìn mọi sự vật qua lăng kính lợi ích cá
nhân. Sự giáo dục thiếu sót làm cho anh ta tránh khỏi những thiên kiến tôn giáo; vì không
hiểu gì về những vấn đề tôn giáo nên anh ta chẳng phải nghĩ nát óc về những vấn đề ấy, anh
ta rất xa lạ với thứ cuồng tín mà người tư sản mắc phải, nếu anh có theo đạo thì chỉ trên lời
nói, thậm chí cũng không phải là trong lĩnh vực lý luận; trên thực tế, người công nhân chỉ
sống vì những lợi ích thế tục và mong được khá hơn một chút trong thế giới này. Tất cả
những văn sĩ tư sản đều nhất trí là công nhân không có tôn giáo và không đi nhà thờ. Chỉ
riêng có người Ai-rơ-len, một ít người có tuổi và người nửa - tư sản: cai, thợ và những người
tương tự, là ngoại lệ. Còn đại bộ phận thì hầu hết chẳng quan tâm gì đến tôn giáo; nhiều lắm
cũng chỉ có thể thấy một chút màu sắc tự nhiên hoặc qua nỗi lo sợ không căn cứ trước những
từ ngữ như infidel (kẻ vô đạo) hoặc kẻ vô thần. Giới tu hành của mọi phái đều bị công nhân
rất coi khinh, tuy họ chỉ mới vừa bị mất ảnh hưởng đối với công nhân, nhưng ngày nay có
tình hình
là chỉ gọi gọn lỏn: he is a parson ! - nó là cố đạo đấy ! - thường đã đủ để đuổi một giáo sĩ ra
khỏi diễn đàn những cuộc hội họp công cộng. Sự thiếu sót về giáo dục tôn giáo và về các mặt
giáo dục khác, cũng như bản thân những điều kiện sinh sống, đã làm cho người công nhân
khách quan hơn, ít bị ràng buộc hơn bởi những thành kiến và những nguyên tắc cũ rích, cố
định, so với người tư sản. Người tư sản ngụp đầu trong những thành kiến giai cấp những
nguyên tắc hắn được nhồi nhét từ thuở nhỏ; đối với hắn thì không thể làm khác được; ngay
cả khi mang cái vỏ tự do, thực chất hắn vẫn là bảo thủ; lợi ích của hắn gắn liền với chế độ
hiện hành và đối với mọi trào lưu tiến bộ, hắn là người đã chết. Hắn không còn đứng ở hàng
đầu sự phát triển lịch sử, và những người công nhân thay thế hắn ở chỗ ấy, thoạt đầu chỉ là về
mặt quyền hạn và sau này là trên thực tế.
Tất cả những điều ấy cùng với hoạt động xã hội nảy sinh từ đó của công nhân - hoạt động
ấy chúng ta sẽ nói đến ở dưới - tạo nên mặt tích cực trong tính cách của giai cấp này; mặt tiêu
cực có thể phác ra trên những nét chung và nẩy sinh một cách cũng hoàn toàn tự nhiên từ
những nguyên nhân nói ở trên. Rượu chè, phóng đãng về mặt tình dục, thô bạo và thiếu tôn