khác, mà không chờ đợi sự hoan nghênh của bên kia hay không, v.v.. Thế rồi người ta còn
tranh cãi về những đặc quyền nhỏ nhặt mà phần lớn đã thành gánh nặng đối với người được
hưởng, nhưng người ta cho là vấn đề danh dự nên tranh cãi rất hăng. Những việc đó cũng
như những việc trọng đại tương tự đã chiếm mất của nghị viện sáng suốt khá nhiều thời gian
và hội nghị đáng kính ấy chẳng còn lại một phút nào để bàn đến sự nghiệp của đế quốc. Do
tất cả những cái đó mà tình trạng mất trật tự và hỗn loạn nghiêm trọng đã diễn ra ở khắp nơi.
Bị những cuộc tranh chấp nội bộ chia sẻ cả trong thời chiến lẫn thời bình, từ cuộc Cải cách
tôn giáo đến năm 1789, đế quốc đã trải qua một loạt nội chiến mà trong mỗi cuộc chiến tranh
đó nước Pháp bao giờ cũng liên minh với bên mạnh chống lại bên yếu và dễ đánh bại của đế
quốc, và đương nhiên là vớ bở. Đầu tiên là Buốc-gum-đi, tiếp theo là ba địa hạt giáo chủ;
Mét-xơ, Tun và Véc-đen rồi đến phần còn lại của Lo-ren, một bộ phận của Phlan-đrơ và An-
da-xơ đã tách ra như vậy khỏi Đế quốc La Mã thần thánh và sáp nhập vào Pháp. Còn Thuỵ Sĩ
thì độc lập đối với Đế quốc, Bỉ thì nhượng lại cho Tây Ban Nha theo di chúc của Sác-lơ V;
tình hình ở tất cả các nước ấy trở nên khá hơn sau khi đã tách khỏi Đức. Cùng với sự tan rã
dần dần ấy ở bên ngoài, trong nội bộ Đế quốc đã diễn ra tình trạng hỗn loạn cực độ. Mỗi một
tiểu vương hầu là một tên
bạo chúa chuyên quyền tàn nhẫn đối với thần dân của mình. Đế quốc chưa bao giờ nhìn ngó
đến vấn đề nội chính của các nước ngoài việc thành lập một toà án (Toà án đế quốc ở Vét-
xla) để xét xử các vụ dân chúng tố cáo quan lại; nhưng cái toà án quý báu ấy giỏi xét xử đến
nỗi người ta chưa bao giờ nghe nói đến một vụ án nào được giải quyết. Thật khó có thể tin
những hành động chuyên quyền vô cùng tàn nhẫn mà bọn vương hầu kiêu căng đã gây ra cho
thần dân của chúng. Bọn vương hầu này chỉ dành thời gian vào việc ăn chơi đàng điếm, đã
giao quyền hành vô hạn cho bọn thượng thư và quan lại nên bọn này có thể tha hồ hăm hại
những người dân bất hạnh miễn là chúng có thể nhét đầy túi tham của chủ và cung cấp đủ số
gái đẹp cho các hậu cung của chủ. Và bọn quý tộc chưa được độc lập, còn ở dưới quyền của
một quốc vương, một giáo chủ hoặc hầu tước nào đó, cũng thường khinh rẻ nhân dân hơn cả
loài chó, chúng nặn bóp tới mức tối đa tiền của bằng lao động của nông nô của chúng, vì sự
lệ thuộc kiểu nông nô hồi bấy giờ là tình hình hoàn toàn thông thường ở Đức. Ngay ở những
thành phố đế quốc trịng trọng mang tên "tự do" cũng chẳng có chút tự do nào vì ở đây thị
trưởng và các thượng nghị sĩ tự bầu mình lên - những chức vị từ mấy thế kỷ nay đã trở thành
cha truyền con nối giống như ngôi vua - lại tỏ ra bạo ngược hơn trong việc cai trị của mình.
Không có gì có thể so sánh nổi với những hành vi hèn hạ của bọn quý tộc tiểu tư sản thành
thị; nếu tất cả cái đó không còn giữ lại trong hồi ức của nhiều người còn nhớ đến thời kỳ ấy,
nếu không có hàng trăm người có uy tín chứng thực thì quả thật không ai tin đấy là tình hình
nước Đức 50 năm trở về trước. Còn nhân dân! Họ đã nói gì về tình hình ấy? Họ đã làm gì?
Còn giai cấp trung gian, bọn tư sản hám của thì họ đã thấy tình trạng hỗn loạn thường xuyên
ấy là cái nguồn làm giàu; bọn tư sản hiểu rằng đục nước thì dễ béo cò; họ cam chịu sự áp bức
và sỉ nhục vì họ biết rằng họ có thể trả thù theo cách của họ: họ lừa gạt kẻ áp bức mình để
rửa nhục cho mình. Đoàn kết với nhân dân, họ có thể lật đổ chính quyền cũ, xây