Học tập Xã hội trong các học thuyết trước đây
Trong học thuyết về phát triển nhân cách, Freud giao vai trò quan trọng
cho tiến trình nhận dạng trong việc định hướng danh mục thuộc hành vi.
Việc định hướng danh mục thuộc hành vi này hình thành nhân cách người
trưởng thành. Bằng sự nhận dạng, Freud muốn nói đến quá trình trong đó
trẻ em quan sát hành vi của người khác (như cha mẹ của chúng) và mô
phỏng các yếu tố nào đó của một hành vi trong số các hành vi khác nhau.
Ngoài công trình của Freud, một số nghiên cứu đầu tiên khác cũng chú ý
đến hành vi mô phòng. Watson (1925) xem xét sự mô phỏng trong mô hình
tạo điều kiện đáp ứng của Pavlov và cho rằng phản ứng mô phỏng chỉ được
huấn luyện qua việc kết đôi các kích thích có điều kiên và vô điều kiện
trong một mô hình tạo điều kiện cổ điển. Nhiều triết gia đầu tiên khác như
Allport (1924), Humphrey (1921), và Holt (1931), cùng tán thành quan
điểm mô phỏng tạo điều kiện đáp ứng.
Theo các quan điểm này, một phản ứng mô phỏng không khác với các
phản ứng được huấn luyện cổ điển khác. Dù không phải tất cả các triết gia
đầu tiên đều cho rằng học tập mô phỏng dựa vào điều kiện cổ điển, nhưng
đa số các phương thức nghiên cứu quan trọng đều công nhận là các phản
ứng mô phỏng được học tập trên cơ sở áp dụng vào các phản ứng khác.
Khi chọn phương pháp của Pavlov, Thorndike (1898) đề nghị là phản
ứng mô phòng chỉ được học tập khi theo sau nó là phần thưởng nào đó.
Ông cho rằng động vật và con người phát ra nhiều phản ứng kể cả các phản
ứng mô phỏng thuộc bản chất. Nếu một số phần thưởng không theo sau
phản ứng, phản ứng sẽ có khuynh hướng không được lặp lại hay ít nhất
không gia tăng khả năng xảy ra, trong khi nếu phần thưởng theo sau phản
ứng sẽ có khả năng phản ứng xảy ra nhiều hơn.
Quan điểm của Miller và Dollard (1941) có ảnh hưởng và phát triển đầy
đủ hơn về mô phỏng, hai ông lập luận rằng mô phỏng nằm trong các quy
luật học tập bình thường. Họ nhận dạng ba loại hành vi mô phỏng khác
nhau, nhưng tập trung phần lớn vào hành vi tùy thuộc phù hợp. Trong tình