(gồm nhiều tình huống liệt kê) để tạo ra một sự thay đổi toàn diện. Học tập
cấu trúc cần phải có ba thay đổi chính từ học thuyết học tập cổ điển (phản
xạ hợp lý), ví dụ như học thuyết của Dollard và Miller: (1) nhân cách con
người không đơn giản là một tập hợp những phản ứng có điều kiện mà là
những cấu trúc có thể xác định được; (2) bản thân sự củng cố không thể
giúp cho việc học hành một cách đầy đủ vì chúng ta có thể thấy rằng những
cấu trúc đang tồn tại sẽ quyết định tỷ lệ cũng như phạm vi của học tập được
tổ chức; và (3) không có kiến thức về cấu trúc khả năng thì động lực củng
cố sẽ thiếu những thông tin cần thiết cũng giống như một bức tranh chỉ có
hai màu trắng và đen (thiếu các thông tin do màu sắc cung cấp). Ứng dụng
thuyết học tập cấu trúc, các nhà phân tích nhân tố thấy rằng những người có
số đo của cấu trúc nhân ở lứa tuổi lên 6 thì có thể thu được số đo của cùng
đặc điểm lứa tuổi 25. Một cấu trúc nhân cách có thể mang tính đặc trưng ở
mỗi thời điểm của hai độ tuổi và sự khác biệt giữa hai cấu trúc ấy tạo nên
sự thay đổi toàn diện về nhân cách. Từ đó, học tập cấu trúc của mỗi cá nhân
được hình thành. Học tập cấu trúc diễn ra trong cả đời người, và 20 đường
cong tương tự đường cong chuẩn để phát triển trí thông minh, giờ đây được
sắp xếp thành phát triển tính cách căn bản theo tuổi tác. Cattell từng đưa ra
những chứng cớ cho rằng một số yếu tố gia tăng hay sụt giảm, lên cao hoặc
xuống thấp, trên phạm vi toàn diện được đo đạc. Ví dụ, sức mạnh bản ngã,
tức khả năng hỗ trợ cho những cơn bốc đồng về cảm xúc, kém khả năng
thỏa mãn nhất thời thì có biểu hiện gia tăng theo tuổi tác.
Dù nhấn mạnh đến những thay đổi về nhân cách trong thời gian dài,
nhưng Cattell vẫn tin rằng những năm đầu đời rất quan trọng đối với việc
hình thành nhân cách. Ông đồng ý với các nhà lý luận phân tâm học rằng
việc hình thành nhân cách sẽ hoàn chỉnh ở độ tuổi lên 6 hay 7.