CHỨNG NHIỄU TÂM
Eysenck ít chú trọng đến nghiên cứu thực nghiệm về chứng nhiễu tâm so
với nghiên cứu của ông về hướng ngoại. Ông đưa ra hai lý do về việc kém
chú trọng này là: (1) các nền tảng cơ bản về sinh lý học và tâm thần học
cho chứng nhiễu tâm được hiểu tốt hơn và (2) các phản ứng cảm xúc thật
sự của loại hình cần cho việc nghiên cứu chứng nhiễu tâm thì rất khó tạo ra
trong phòng thí nghiệm; trong khi sự kích động vỏ não cần cho nghiên cứu
hướng ngoại thì hoàn toàn có thể tạo ra (Eysenck, giao tiếp cá nhân 1978).
Học thuyết của Eysenck về chứng nhiễu tâm, dù ít tỉ mỉ và kém ổn định
hơn so với học thuyết về hướng ngoại nhưng học thuyết này tương đồng
song hành với học thuyết hướng ngoại ở mức độ bền vững. Chứng nhiễu
tâm cần được xem là một phương diện nhân cách độc lập có nguồn gốc di
truyền và có một nền tảng sinh lý học tâm thần, ảnh hưởng đến các khía
cạnh nhất định của hành vi bình thường và hành vi bất thường. Đối với
quan điểm sau, dường như cần phải làm rõ cách dùng ban đầu của Eysenck
về thuật ngữ chứng nhiễu tâm. Những thuật ngữ nhiễu tâm và dễ bị kích
động thần kinh được sử dụng trong ngành tâm lý bệnh học để chỉ rõ sự liên
hệ nhất định của các triệu chứng gây ra hành vi bất bình thường. Tuy nhiên,
trong cách dùng của Eysenck, chứng nhiễu tâm không nhất thiết phải liên
quan đến hành vi bất thường. Nói đúng hơn đó là một phương diện phản
ánh tính đa cảm của mỗi cá nhân. Ở trạng thái cảm xúc cao, con người
được cho là không ổn định về mặt cảm xúc và có khuynh hướng nhạy cảm
đặc biệt với nỗi đau, sự mới lạ, sự lo lắng hoặc những kích thích cảm xúc
khác. Trong khi những người ở trạng thái cảm xúc thấp thì ổn định về mặt
cảm xúc, tương đối không nhạy cảm. Một số người quan niệm sự khác
nhau giữa trạng thái ổn định và không ổn định là phản ánh cường độ phản
ứng của mỗi cá nhân đối với kích thích bên ngoài, người dễ xúc cảm luôn
mong muốn được biểu lộ phản ứng tối thượng của mình, người có mức độ
cảm xúc khá ổn định thì biểu lộ những phản ứng rất ít. Tuy nhiên, Eysenck
(1960b) và Duffy (1962) tranh luận rằng sự khác biệt này nên được gọi
bằng thuật ngữ “tính liên tục của phản ứng” đúng hơn là cường độ phản