Kích động và kích hoạt
Eysenck (1967) cho rằng tính đa cảm có đặc tính định hướng nhưng các
đặc tính đó được kết hợp với chứng nhiễu tâm thì khác biệt phần nào so với
những đặc tính đi đối với sự hướng ngoại. Khái niệm kích động định hướng
song hành trên lý thuyết với yếu tố hướng ngoại đã góp phần hình thành
nên kích thích bên ngoài tác động lên những cảm xúc và bởi sự kích thích
bên trong từ vỏ não. Eysenck cho rằng sự kích hoạt là khái niệm định
hướng cùng với phương diện chứng nhiễu tâm đã góp phần được hình
thành nên bởi sự kích thích cảm xúc một cách cơ bản hay đặc biệt. Căn cứ
tinh thần đối với sự kích hoạt cảm xúc là một hệ thống tiềm thức hoặc là
phần tri giác (xem hình 12-1, trang 568). Sau khi nghiên cứu đáng kể, hệ
thống não quan trọng này có thể tham gia vào hoạt động biểu lộ cảm xúc.
Nó tác động với vỏ não, kích thích vỏ não gia tăng sự kích động và nhận
kích thích liên quan về cảm xúc từ vỏ não. Phần não truyền cảm giác cũng
có nguồn gốc từ hệ thần kinh tự trị, hệ thần kinh này cũng có liên quan đến
chức năng truyền cảm xúc. Thêm vào đó, não tác động với ARAS để góp
phần tạo nên mức độ kích động chung được điều khiển bằng cấu trúc đó.
Eysenck cho rằng yếu tố nhiễu tâm (như sự hướng ngoại) về bản chất có
tính di truyền một cách cơ bản. Một số nghiên cứu cũng đưa ra những kết
quả tương tự với giả thuyết này. Trong nghiên cứu ban đầu, Eysenck và
Prell (1951) đã so sánh sự tương quan về chứng nhiễu tâm ở những anh em
sinh đôi cùng trứng để bổ sung cho giả thuyết về tính di truyền này. Nghiên
cứu của Shield đã được thảo luận ban đầu kiểm chứng về bệnh nhiễu tâm
cũng như sự hướng ngoại ở những cặp anh em sinh đôi cùng trứng và
những anh em sinh đôi khác trứng. Tương quan về chứng nhiễu tâm ở
những cặp anh em sinh đôi cùng trứng cao hơn nhiều so với các cặp anh em
sinh dôi khác trứng. Phân tích lại của Jinks – Fulker (1970) về nghiên cứu
của Shield đều đưa ra những bằng chứng di truyền của chứng nhiễu tâm.
Hoạt động và kích hoạt. Mối liên hệ được giả định giữa hoạt động và
kích động là một đường cong hình chữ U bị lộn ngược. Eysenck (1967) cho
rằng một đường cong hình chữ U bị lộn ngược tương tự tạo nên đặc tính