Các nghiên cứu thực nghiệm về chứng nhiễu tâm
Chúng tôi đã từng nêu lên trong khi thảo luận về yếu tố sự hướng ngoại
rằng đã có một số lượng lớn các nghiên cứu thực nghiệm về những đặc tính
khác nhau giữa những người sống hướng ngoại và ở những người sống
thiên về nội tâm, và nhiều nghiên cứu trong số đó đặc biệt dựa trên sự
hướng ngoại khi được đo bằng EPI hay MPI. Nghiên cứu này hoàn toàn
khác với chứng nhiễu tâm (chỉ có một số ít nghiên cứu về vấn đề này) và
nhiều nghiên cứu đã hoàn thành cho đến nay vẫn chưa có những định nghĩa
có thể dùng được về chứng nhiễu tâm bằng thuật ngữ MPI hay EPI.
Eysenck (1967) đã xem lại nhiều tài liệu nghiên cứu có liên quan đến
chứng nhiễu tâm khi ông định nghĩa nó. Hầu hết các nghiên cứu được xem
xét đều dựa trên sự giả định hơi rời rạc khi cho rằng yếu tố nhiễu tâm của
Eysenck có quan hệ gần gũi với sự lo lắng và sự nhiễu tâm. Xem lại các
nghiên cứu về nhịp tim, huyết áp, mẫu ghi điện não (EEG) và các biến số
tâm sinh lý học khác, Eysenck (1967) đã kết luận rằng những chủ thể lo
lắng và nhiễu tâm có khuynh hướng thể hiện những phản ứng đa dạng hơn,
mãnh liệt hơn đối với sự kích thích và mất nhiều thời gian hơn để trở lại
trạng thái tiền kích thích của hoạt động sinh lý. Năm 1964, Jensen đã tiến
hành nghiên cứu chứng nhiễu tâm cũng như sự hướng ngoại ở trong mối
quan hệ với các nhiệm vụ học hỏi. Dù sự hướng ngoại có liên quan với
nhiều khía cạnh khác nhau của học hỏi nhưng chứng nhiễu tâm lại cho thấy
không có liên quan gì đến việc học tập cả. Mặt khác, năm 1964
Shanmugam và Santhanam đã nhận thấy những chủ thể bị mắc chứng nhiễu
tâm ở mức cao sẽ có thành tích cao hơn trên một chuỗi các công việc học
tập. Năm 1962, Eysenck đã nhận thấy rằng yếu tố nhiễu tâm hoàn toàn
không liên quan đến sự theo đuổi động cơ học tập. Không có mối quan hệ
rõ ràng nào được tìm thấy giữa nhiễu tâm và các loại hình học tập được
điều tra cho đến nay. Tuy nhiên, những tài liệu nghiên cứu chứng nhiễu tâm
không mang tính dứt khoát.
Những nghiên cứu về ngưỡng nhận biết, phản ứng đối với điện (EDR) và
máy ghi điện não đồ (EEG) có thể mang lại những hiểu biết sâu hơn về các