đặc tính đa dạng của những đối tượng bị nhiễu tâm cao lẫn thấp. Ehlers
(1963) đã nhờ các đối tượng học sự liên tưởng giữa một âm tiết vô nghĩa và
một trong nhiều tác nhân kích thích. Sau đó, bà đã dùng máy thử trí nhớ để
biểu thị các âm tiết vô nghĩa đó trong một khoảng thời gian ngắn. Ngưỡng
nhận biết được định nghĩa như một khoảng thời gian mà kích thích tồn tại
trước khi đối tượng có thể phản ứng lại kích thích đó. Ngưỡng nhận biết có
mức độ thấp ở những đối tượng bị nhiễu tâm ở mức độ cao. Nghĩa là,
những người bị nhiễu tâm đòi hỏi ít thời gian nhận biết hơn là những người
bình thường. Mặt khác, những nghiên cứu về EDR cho thấy rằng chứng
nhiễu tâm không rõ ràng bằng sự hướng ngoại nhưng nó có liên quan đến
việc đo lường các hoạt động của hệ thần kinh tự động (Coles, Gale và Kline
1971; Mangan và O’Gorman 1969; Orlebeke 1973; Wigglesworth và Smith
1976). Trong công trình về máy ghi điện não đồ. Savage (1964) đã ghi lại
kích cỡ hay biên độ trung bình của các sóng não trong dãy tần số alpha.
Ông tìm ra rằng không có sự khác biệt giữa những đối tượng mắc chứng
nhiễu tâm ở mức độ cao hoặc thấp, dù những người sống hướng ngoại có
biên độ sóng não alpha cao hơn nhiều so với những người sống nội tâm.
Điều này cho thấy mức độ ức chế vỏ não cao hơn (hoặc mức kích thích vỏ
não thấp hơn) chỉ tìm thấy ở những người sống hướng ngoại (như Eysenck
từng tiên đoán).