riêng biệt dựa trên nhận thức mà sự gợi
ý đã đưa ra. (b) Kết luận được gợi ý ra
chừng nào còn chưa được chấp nhận mà
chỉ được coi là tạm thời sẽ tạo thành một
ý kiến. Những từ đồng nghĩa cho điều
này là giả định, phỏng đoán, dự đoán,
giả thuyết, và (trong những trường hợp
rất cụ thể) là lý thuyết, vì rằng niềm tin
được trì níu, hay là việc trì hoãn một kết
luận cuối cùng trước khi có thêm bằng
chứng, tùy thuộc phần nào vào sự xuất
hiện của những phỏng đoán đối chọi, với
ý nghĩa như là một tiến trình tốt nhất để
nương theo hoặc một sự giải thích khả dĩ
đáng ưng thuận, việc nuôi dưỡng các gợi
ý đa dạng và có thể thay thế cho nhau là
một nhân tố quan trọng của việc suy
nghĩ đến nơi đến chốn.
4. Phân giải chi tiết một ý kiến
4. Quá trình phát triển các căn cứ –
hoặc, gọi theo đúng thuật ngữ hơn, các
ẩn ý – của bất kỳ ý kiến nào đối với bất
kỳ vấn đề nào, được gọi là lý giải. Trong
khi một ý kiến được suy ra dựa trên
những sự kiện nào đó, việc lý giải lại
khởi phát từ một ý kiến. Ý kiến về đường
ray trên cao được triển khai thành ý kiến
về cái khó trong việc xác định ga tàu,
quãng thời gian mất đi khi di chuyển,
khoảng cách giữa ga đi và nơi cần đến.
Trong ví dụ thứ hai, ẩn ý về một cột cờ