gì đó chủ yếu có nghĩa là thử làm hoặc
thử nghiệm nó. Vị khách được mời đến
dự tiệc cưới tự bào chữa cho sự vắng
mặt bản thân vì anh ta phải chứng tỏ bầy
gia súc của mình
. Những ngoại lệ được
phát biểu nhằm để chứng tỏ một quy tắc;
có nghĩa là họ cung cấp những ví dụ cực
đoan cho thấy họ đã thử nghiệm ở tình
trạng khắt khe nhất có thể đem áp dụng;
nếu quy tắc có thể đứng vững trước thử
nghiệm như thế, không có lý do nào để
tiếp tục nghi ngờ quy tắc đó. Cho tới khi
nào một điều gì được thử nghiệm – nói
nôm na là ‘đã qua thử thách rồi’ – thì tới
khi đó ta mới biết giá trị thật sự của nó.
Từ đó trở về trước nó vẫn có thể là giả,
là hão. Nhưng cái gì vượt thoát một
cuộc thử nghiệm hoặc thử sức tự nó đã
mang theo những sự tin cậy; nó được
chấp nhận vì nó dã được chứng tỏ. Giá
trị của nó đã được biểu lộ, biểu thị hay
phô bày rõ ràng. Suy luận cũng tương tự
như vậy. Chỉ nội việc suy luận, về đại
thể, là một chức năng đáng quý không
phải là sự đảm bảo, thậm chí không giúp
gì cho sự chính xác của một suy luận
riêng biệt nào cả. Bất cứ suy luận nào
cũng có thể sai lầm; và như ta đã thấy,
có những ảnh hưởng thực sự luôn sẵn
sàng làm cho nó hóa thành sai. Điều
quan trọng ở đây là, mọi suy luận phải