Nhìn lại lịch sử mở mang bờ cõi về phương nam thì thấy suốt thời
gian ngót 400 năm (từ 1069 đời Lý Thánh Tông đến 1400 đời Trần
Thiếu Đế), Nhà nước Đại Việt đã thôn tính trọn 5 xứ của nước Chiêm.
Năm 1069, vua Lý Thánh Tông đánh Chiêm Thành, bắt được vua
Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III). Vua Chiêm dâng 3 châu Địa Lý,
Ma Linh và Bố Chính; vua Lý đổi châu Địa Lý làm châu Lâm Bình,
châu Ma Linh làm châu Minh Linh, giữ châu Bổ Chính nguyên tên cũ,
rồi chiêu mộ dân đến đấy ở
. Đó là lần đầu tiên triều đình Đại Việt tổ
chức di dân vào đất Chiêm Thành... Năm 1103, vua Chiêm là Chế Ma
Na (Jaya Indravarman II) đánh lấy lại đất 3 châu ẫy. Năm sau (1104),
vua Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt sang đánh Chiêm Thành, Chế
Ma Na sợ, phải dâng trả lại đất 3 châu đã chiếm
.
Năm 1307, sau khi tiếp nhận hai châu Ô và Lý, đổi thành châu
Thuận và châu Hóa, vua Trần Anh Tông sai Hành khiển Đoàn Nhữ
Hài đến vỗ yên dân hai châu đó. Người các thôn La Thủy, Tác Hồng,
Đà Bổng không chịu theo. Vua sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý của
nhà vua, rồi chọn người Chiêm trao cho quan tước, cấp ruộng đất,
miễn tô thuế 3 năm để vỗ về
... Năm 1313, cử Đỗ Thiên Hư làm
Kinh lược sứ cả đất Nghệ An và đất Lâm Bình, mọi kế hoạch về biên
giới vua Trần (Minh Tông) đểu ủy thác cho Thiên Hư lo liệu
. Năm
1353, vua Trần Minh Tông sai Trương Hán Siêu trấn thủ Hóa châu
Ở đất này, mãi đến năm 1361 mới đắp thành Hóa Châu, sau Hồ Quý
Ly mới sửa sang lại...
Xem như vậy thì lúc đầu nhà Trần tiếp nhận đất Chiêm Thành, chủ
trương di dân chưa thấy được rõ nét. Đến đời nhà Hồ, vua Việt mới
thực hiện lại chính sách di dân sang vùng đất mới. Tháng 3 năm Nhâm
Ngọ (1402), Hồ Hán Thương cho đắp con đường thiên lý từ Tây Đô
(Thanh Hóa) chạy đến Hóa châu (Thừa Thiên - Huế)
. Năm 1404,
vua Hán Thương sai đào Liên cảng là con sông vận chuyển từ Tân
Bình đến giáp giới Thuận Hóa, để tiện lợi cho việc chuyên chở và