chẳng khó sao? Mới rồi có người dâng thư trình bày, xin lấy tiền giấy
thay cho tiền thực. Trẫm sớm khuya nghĩ ngợi, chưa nghĩ ra cách gì.
Vì rằng tiền giấy là thứ vô dụng, lại được lưu hành như vật hữu dụng
trong dân, thực không phải là ý nghĩa yên dân, dùng của (...)
. Và khi
nhận xét về tiền Thông Bảo hội sao, sử thần Phan Huy Chú (1782 -
1840) đã viết: “(...) tiền giấy chẳng qua chỉ là mảnh giấy vuông, phí
tổn chỉ đáng 5, 3 đồng tiền, mà đem đổi lấy vật đáng giá 5, 6 trăm
đồng của người ta, cố nhiên không phải là cái đạo đúng mức. Vả lại,
người có tiền giẫy cất giữ cũng dễ rách nát, mà kẻ làm giả mạo sinh ra
không cùng, thực không phải là cách bình ổn vật giá mà lưu thông của
cải của dân vậy. Quý Ly không xét kỹ đến cái gốc lợi hạí, chỉ ham
chuộng hư danh sáng chế, để cho tiền của, hàng hóa thường vẫn lưu
thông tức thì sinh ra ứ đọng, khiến dân nghe thấy đã sợ, thêm mối xôn
xao, thế có phải là chế độ bình trị đâu!”
Có lẽ xuất phát từ cách nhận định như vậy nên tiền giẫy Thông Bảo
hội sao chỉ tồn tại được trong thời gian có hơn 10 năm. Tiền giấy mất
theo cùng với sự sụp đổ của vương triều Hồ vào năm 1407. Các triều
đại sau đó - Hậu Lê, Mạc, Tây Sơn, Nguyễn đểu cho đúc lại tiền bằng
kim khí để sử dụng trong dân.
II. CẢI CÁCH THUẾ VỤ
Một chính sách cải cách tài chính quan trọng khác của nhà là sự đổi
mới chế độ thuế khóa, thể hiện qua 3 sắc thuế lúc bấy giờ là: thuế đinh
(hay thuế thân, thuế dung), thuế điển (hay thuế tô) và thuế thuyền
buôn. Cả 3 sắc thuế này đều được nhà Hồ sửa đổi, bổ sung sau khi đã
lên ngôi.
Về thuế đinh và thuế điền, Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện vào
năm 1402 như sau: “Hán Thương định lại các lệ thuế và tô ruộng.
Triều trước mỗi mẫu thu 3 tháng thóc, nay thu 5 thăng. Bãi dâu, triều
trước thu mỗi mẫu 9 quan hoặc 7 quan tiền, nay thu hạng thượng đẳng
mỗi mẫu 5 quan tiền giấy, hạng trung đẳng 4 quan tiền giấy, hạng hạ