Trong bài Tựa mới, Hồ Quý Ly nói rõ ông dịch và giải thích theo ý
kiến riêng của mình chứ không theo lời chú thích của Chu Hy. Bình
luận về việc này, tác giả Kiều Thanh Quế trong tác phẩm Cuộc tiến
hóa văn học Việt Nam viết: “Người nước ta, trước Quý Ly, học Thi,
Thư của Tàu, nô lệ theo tư tưởng người Tàu, nhất nhất quy theo lời
chú thích của Chu Hy. Chỉ họ Hồ là người trước hết thoát ly được óc
nô lệ cổ nhân, đáng phục thay!”
.
Trước Hồ Quý Ly, trừ Hàn Thuyên
đã có làm thơ chữ Nôm, còn nói chung tầng lớp quý tộc và trí thức Đại
Việt thường chỉ biết có chữ Hán, chỉ coi trọng chữ Hán, Nhà nước
xem chữ Hán là văn tự chính thức của dân tộc và chỉ cho phép dùng
chữ Hán để dạy học... Hai sách biên dịch nói trên cùng nhiều bài thơ
Nôm của Hồ Quý Ly
đã cho thấy rõ thái độ ông đề cao, khuyến
khích việc phổ biến và sử dụng chữ Nôm đến mức nào. Thái độ ấy nói
lên một cách hùng hồn tinh thần dân tộc của Hồ Quý Ly và tinh thần
ấy lại được thể hiện qua nội dung cẩm nang dành để dạy dỗ những
người đang giữ cương vị tối cao trong xã hội. Thật là một hành vi văn
hóa có ý nghĩa lịch sử hết sức đặc biệt!
Ở đây, tinh thần độc lập, sáng tạo của Hồ Quý Ly đã đưa ông lên vị
trí vượt xa người cùng thời với ông và tầng lớp nho sĩ đời sau ông rất
xa, như có lần danh nho Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XV), đời Lê, đã mạnh tay
phê phán Hồ Quý Ly rằng: “Chu Tử sinh vào cuối đời Tống, kế tiếp
công việc chú giải lục kinh của các nhà nho Hán, Đường, ngược dòng
tìm nguồn, hiểu được ý của thánh nhân ở các bộ kinh để lại, rõ được
đạo thánh nhân ở những lời huấn giải, vắt óc nghiền ngẫm, lý và tâm
dung hợp. Ông giải thích thì tường tận, chỉ dẫn thì xa rộng, thực là tập
đại thành của các tiên nho và cũng là khuôn mẫu cho những kẻ hậu
học. Huống chi lại có Trình Tử xướng ở trước và Chu Tử bổ sung chỗ
chưa hoàn hảo ở sau, thì nghĩa đã tinh lắm rồi. Người sau mà có trước
tác thì cũng chỉ là mở mang cho rộng thêm, tô chuốt cho bóng thêm,
có thế mà thôi, sao lại được chê bai bàn cãi?”
.